Nhiễm khuẩn mô mềm (da liễu)

Nhanh lên! Chỉ còn 49 mặt hàng trong kho

00 days
21 hrs
40 mins
58 secs

 

BỆNH NHIỄM TRÙNG Ở DA VÀ MÔ MỀM

1. ĐẠI CƯƠNG
Nhiễm trùng da và mô mềm là nhiễm trùng thường gặp với biểu hiện lâm sàng đa dạng ở các mức độ khác nhau.
Tỷ lệ cần nhập viện điều trị trong số những người bệnh có nhiễm trùng da và mô mềm khoảng 29%.
Những yếu tố thuận lợi dẫn tới nhiễm trùng da và mô mềm bao gồm:
Các tổn thương hàng rào da niêm mạc: như vết thương, bỏng.
Các bệnh lý mạn tính: đái tháo đường, xơ gan, các bệnh lý gây suy giảm miễn dịch khác.
2. NGUYÊN NHÂN
Các vi khuẩn thường gặp gây nhiễm trùng da và mô mềm:
- Staphylococcus aureus.
- Pseudomonas aeruginosa.
- Các chủng Enterococcus.
- Escherichia coli.
- Các chủng Enterobacter.
- Các chủng Klebsiella.
- Beta-hemolytic Streptococcus.
- Proteus mirabilis.
- Staphylococcus không sinh Coagulase.
- Các chủng Serratia.
- Các vi khuẩn nhóm Clostridium như Clostridium perfringens.
3. CHẨN ĐOÁN
3.1. Lâm sàng
- Chốc (impetigo):
Thường xuất hiện ở những vị trí tiếp xúc, thường gặp nhất là ở mặt và các chi.
Tổn thương có ranh giới rõ ràng nhưng thường nhiều và có thể có hoặc không có bọng nước.
Các tổn thương bọng nước ban đầu là các bóng nước ở bề mặt, lớn dần lên thành các bọng nước vàng, sau đó sẫm mầu hơn và đôi khi có mủ.
Các tổn thương chốc không có bọng nước khởi phát là các nhú, sau đó tiến triển thành các bóng nước xung quanh là hồng ban và có sẩn, lớn đần lên và vỡ sau 4-6 ngày hình thành lớp vỏ dày.
- Áp xe:
Là các tổn thương mủ trong hạ bì và mô da sâu hơn.
Các tổn thương này thường đau, các nốt đỏ và thường nổi lên các mụn mủ và bao quanh bởi tổn thương phù nề hồng ban.
- Nhọt:
Là các nhiễm trùng nang lông thường do S. aureus lan rộng qua hạ bì xuống mô dưới da.
- Viêm mô tế bào:
Là tình trạng nhiễm trùng da cấp tính lan tỏa, gây tổn thương lớp sâu của hạ bì cùng mô mỡ dưới da.
Biểu hiện lâm sàng là tình trạng tiến triển nhanh sưng nóng, đỏ.
Trên vùng da viêm có thể xuất hiện bọng nước và có thể xuất huyết da hay có các chấm xuất huyết.
- Viêm cân hoại tử là tình trạng nhiễm trùng dưới da, bao gồm cả mô da và cơ bên dưới.
Bệnh biển hiện ban đầu có thể là các vết xước nhẹ hoặc các vết cắn, sau đó tiến triển thành tình trạng nhiễm độc toàn thân và sốt cao.
- Viêm cơ mủ:
Là tình trạng nhiễm trùng trong một nhóm cơ, thường gặp do S. aureus.
Biểu hiện là tình trạng đau tại chỗ nhóm cơ, cơ co rút cơ và sốt cao.
- Hoại thư Fournier:
Là tình trạng nhiễm trùng mô mềm hoại tử ở vùng bìu, dương vật hoặc môi âm đạo.
Nhiễm trùng có thể khởi phát thầm lặng nhưng tiến triển nhanh sau 1-2 ngày.
- Hoại thư sinh hơi do Clostridium:
Đau rất nhiều ở vị trí tổn thương trong vòng 24 giờ tiếp sau khi nhiễm khuẩn, vùng da nhanh chóng chuyển sang mầu đồng và tím đỏ.
Vùng nhiễm trùng mềm hơn và xuất hiện các bọng nước lấp đầy bởi dung dịch hơi đỏ, có khí trong mô và kèm theo các triệu chứng toàn thân như nhiễm độc, nhịp tim nhanh, sốt.
3.2. Cận lâm sàng
- Đối với các trường hợp nhiễm trùng da và mô mềm nhẹ, không bắt buộc tiến hành các xét nghiệm thăm dò.
- Đối với các trường hợp nhiễm trùng da và mô mềm nặng, có biến chứng:
+ Cấy máu xác định có nhiễm khuẩn huyết kèm theo.
+ Cấy các bệnh phẩm lấy từ ổ nhiễm trùng da và mô mềm (được lấy vô khuẩn).
+ Các dấu ấn nhiễm khuẩn:
Xét nghiệm tế bào máu ngoại vi:
Số lượng bạch cầu máu ngoại vi thường tăng cao (> 12 G/l), trường hợp nhiễm trùng nặng bạch cầu có thể giảm < 4000.
Tăng protein phản ứng C (CRP), tăng procalcitonin.
+ Các xét nghiệm đánh giá tổn thương cơ quan tùy theo vị trí nhiễm trùng khởi điểm như xét nghiệm cắt lớp vi tính, X quang xương, siêu âm, xét nghiệm sinh hóa máu khác…
3.3. Chẩn đoán xác định
Chẩn đoán xác định nhiễm trùng da và mô mềm dựa vào biểu hiện lâm sàng và kết quả nuôi cấy và định danh vi khuẩn gây bệnh từ mẫu bệnh phẩm lấy từ ổ nhiễm trùng.
4. ĐIỀU TRỊ
4.1. Nguyên tắc điều trị
- Điều trị kháng sinh kết hợp với xử trí các ổ nhiễm trùng.
- Đối với các trường hợp nặng, cần phối hợp với các biện pháp hồi sức phù hợp.
4.2. Điều trị cụ thể
a. Lựa chọn kháng sinh theo kinh nghiệm và theo kháng sinh đồ
* Chốc và các nhiễm trùng da nhẹ: có thể dùng một trong các kháng sinh sau:
Dicloxacillin 250 mg x 4 lần/ngày, uống
Cephalexin 250 mg x 4 lần/ngày, uống
Erythromycin 250 mg x 4 lần/ngày, uống
Clindamycin 300-400 mg x 3 lần/ngày, uống
Amoxicillin/clavulanate 875/125 mg x 2 lần/ngày, uống
Kem mỡ Mupirocin Bôi tổn thương 3 lần/ngày
* Nhiễm trùng hoại tử da do nhiều vi khuẩn
- Phối hợp một kháng sinh nhóm 1 với 1 kháng sinh nhóm 2
Nhóm 1 Nhóm 2
Ampicillin-sulbactam (1,5-3,0 g mỗi 6-8 giờ, tiêm tĩnh mạch) HOẶC
piperacillin-tazobactam (3,37 g mỗi 6-8 giờ, truyền tĩnh mạch)
Clindamycin (600-900 mg/kg mỗi 8 giờ, truyền tĩnh mạch) HOẶC
Ciprofloxacin (400 mg mỗi 12 giờ, truyền tĩnh mạch)
Cefotaxim (2 g mỗi 6 giờ, tiêm tĩnh mạch) Metronidazol (500 mg mỗi 6 giờ, truyền tĩnh mạch) HOẶC
Clindamycin (600-900 mg/kg mỗi 8 giờ, truyền tĩnh mạch)
Hoặc dùng:
Imipenem/cilastatin 0,5-1 g mỗi 6-8 giờ, truyền tĩnh mạch
Meropenem 1 g mỗi 8 giờ, truyền tĩnh mạch
Ertapenem 1 g/ngày, truyền tĩnh mạch
Nhiễm S. aureus
Nafcillin 1-2 g mỗi 4 giờ, tiêm tĩnh mạch
Oxacillin 1-2 g mỗi 4 giờ, tiêm tĩnh mạch
Cefazolin 1 g mỗi 8 giờ, tiêm tĩnh mạch
Clindamycin 600-900 mg/kg mỗi 8 giờ, tiêm tĩnh mạch
Vancomycin 30 mg/kg chia 2 lần, tiêm tĩnh mạch
Nhiễm Clostridium
Clindamycin 600-900 mg/kg mỗi 8 giờ, tiêm tĩnh mạch
Penicillin 2-4 MU mỗi 4-6 giờ, tiêm tĩnh mạch

b. Xử trí ổ nhiễm trùng
- Chỉ định phẫu thuật trong các trường hợp sau:
+ Các ổ áp xe quanh hậu môn lan rộng hoặc áp xe nhiều ổ cần dẫn lưu và cắt lọc.
+ Nhiễm trùng vị trí phẫu thuật: cân nhắc chuyển ngoại khoa để mở rộng vết mổ và dẫn lưu.
+ Nhiễm trùng hoại tử: cần nhanh chóng phẫu thuật cắt lọc.
c. Điều trị hỗ trợ và hồi sức
- Đề phòng và điều trị sốc nhiễm khuẩn.
- Điều chỉnh cân bằng nước, điện giải và thăng bằng kiểm toan.
- Hạ sốt, dinh dưỡng nâng cao thể trạng.
- Chăm sóc vệ sinh vết thương, chống loét.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. May, A.K. (2011), "Skin and soft tissue infections: the new surgical infection society guidelines". Surg Infect (Larchmt), 12(3): p. 179-84.
2. Stevens, D.L., A.L. Bisno, H.F. Chambers, et al. (2005), "Practice guidelines for the diagnosis and management of skin and soft-tissue infections". Clin Infect Dis, 41(10): p. 1373-406..
3. Liu, C., et al.(2011), Clinical practice guidelines by the infectious diseases society of america for the treatment of methicillin-resistant Staphylococcus aureus infections in adults and children: executive summary. Clin Infect Dis, 2011. 52(3): p. 285-92.
4. Dennis L. Stevens (2010), Chapter 21 “Infections of the skin, muscle, and soft tissue”. Harrison's infectious diseases, p. 230-237, McGraw-Hill Medical, New York.



TIP

Nhiễm khuẩn da và mô mềm là loại nhiễm khuẩn thường liên quan đến các yếu tố nguy cơ như chấn thương, bệnh lý nền như tiểu đường, suy giảm miễn dịch, vệ sinh kém và tiêm truyền tĩnh mạch.
Việc chẩn đoán sớm và điều trị phù hợp là cực kỳ quan trọng để đạt được kết quả tốt và tránh các biến chứng nguy hiểm.

Nguyên nhân nhiễm khuẩn da – mô mềm
Mức độ nghiêm trọng của nhiễm khuẩn da và mô mềm (Skin and Soft Tissue Infections - SSTIs) có liên quan chặt chẽ với độ sâu của vùng nhiễm khuẩn.
Càng sâu vào cấu trúc da, bệnh cảnh càng trở nên nghiêm trọng.
Mỗi loại nhiễm khuẩn thường gắn liền với một tác nhân gây bệnh riêng.
Ở lớp biểu bì, chốc lở thường do Staphylococcus Aureus và Streptococcus Pyogenes.
Trong lớp hạ bì, viêm nang lông thường liên quan đến Staphylococcus Aureus.
Tại nang lông, viêm quầng thường do Streptococcus Pyogenes.
Ở lớp mỡ dưới da, viêm mô tế bào thường do Streptococcus Pyogenes (phổ biến nhất), Staphylococcus Aureus (ít gặp hơn) và Haemophilus Influenzae (hiếm gặp).
Tại lớp cân cơ, viêm gân hoại tử thường do Streptococcus pyogenes và vi khuẩn đường ruột.

Trong một số tình huống khác, các tác nhân ít gặp hơn có thể gây ra nhiễm khuẩn, như Aeromonas Hydrophila ở vết thương trong nước ngọt hoặc nước lợ, Vibrio Species ở vết thương tiếp xúc với nước mặn hoặc hải sản bị nhiễm bẩn, Pasteurella Multocida, Capnocytophaga Aanimorsus và các vi khuẩn kỵ khí ở vết thương do chó, mèo cắn, hay Streptococci, Eikenella Spp và vi khuẩn kỵ khí ở vết thương do người cắn.

Phương pháp điều trị các loại nhiễm khuẩn da mô mềm thường gặp
Viêm mô tế bào
Viêm mô tế bào là nhiễm khuẩn cấp tính ở da và mô dưới da, thường do Streptococci hoặc Staphylococci.
Triệu chứng bao gồm đau, nóng, đỏ và phù nề da, có thể kèm theo sốt và sưng hạch.
Chẩn đoán dựa trên lâm sàng, mặc dù nuôi cấy chỉ có khoảng 20% dương tính. 
Điều trị bằng kháng sinh ngay lập tức là điều cần thiết.
Trong các trường hợp cấy âm tính, hầu hết vẫn đáp ứng với điều trị chống liên cầu tán huyết. Các nguyên nhân khác có thể được cân nhắc dựa trên tiền sử bệnh nhân hoặc các bệnh lý đi kèm.

Viêm cân cơ hoại tử
Viêm cân cơ hoại tử là một loại nhiễm khuẩn da và mô mềm hiếm gặp liên quan đến cân cơ sâu, luôn cần can thiệp phẫu thuật, nuôi cấy vi khuẩn và dùng kháng sinh tĩnh mạch phổ rộng.
Tỷ lệ mắc bệnh khác nhau tùy khu vực.
Viêm cân cơ hoại tử loại I do nhiều loại vi khuẩn, còn loại II do Streptococcus pyogenes.
Các triệu chứng bao gồm đau không tương xứng, mọng nước, nhiễm độc toàn thân và các dấu hiệu cận lâm sàng.
Bệnh thường xảy ra ở chi dưới, liên quan đến một số bệnh lý như tiểu đường.
Do thiếu thử nghiệm lâm sàng, việc điều trị chủ yếu dựa trên ý kiến chuyên gia, với liệu pháp kháng sinh tối thiểu 48 - 72 giờ sau khi bệnh ổn định.

Viêm cơ, viêm cơ mủ, hoại thư sinh hơi
Viêm cơ
Viêm cơ có thể phân biệt thành viêm cơ hoại tử do nhiễm khuẩn clostridial và viêm cơ mủ do Staphylococcus Aureus.
Viêm cơ hoại tử cần phẫu thuật khẩn cấp, trong khi viêm cơ mủ có thể điều trị bằng kháng sinh và dẫn lưu qua da.

Viêm cơ mủ
Viêm cơ mủ đặc trưng bởi đau khu trú ở một nhóm cơ đơn lẻ kèm theo sốt.
MRI là phương pháp chẩn đoán hình ảnh lựa chọn, nhưng siêu âm tại giường cũng có thể là phương pháp thay thế nhanh chóng và hữu ích.

Hoại thư sinh hơi hoặc viêm cơ hoại tử
Hoại thư sinh hơi hoặc viêm cơ hoại tử do các chủng Clostridium như C. perfringens, C. septicum, C. sordellii gây ra.
Các nhiễm khuẩn này thường liên quan đến chấn thương, giảm bạch cầu, các khối u ác tính, sinh con và phá thai tại nhà, hoặc lạm dụng thuốc.

Nhiễm khuẩn hoại tử
Chẩn đoán nhiễm khuẩn hoại tử là một thách thức, vì lâm sàng thường không đáng tin cậy. Các xét nghiệm sinh hóa và hình ảnh học như X-quang, CT, siêu âm và MRI có thể hỗ trợ, nhưng mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm.
Trong những trường hợp phức tạp, sinh thiết với tiêu bản đông lạnh được khuyến cáo để chẩn đoán xác định, mặc dù không phù hợp trong tình trạng cấp cứu.
Khi nghi ngờ nhiễm trùng mô mềm nặng, cần phải chụp phim ảnh để đánh giá trước phẫu thuật.
Kháng sinh phổ rộng thường được sử dụng để điều trị ban đầu, nhưng cần điều chỉnh dựa trên kết quả cấy vi khuẩn.
Tỷ lệ kháng thuốc, đặc biệt là với S. aureus kháng methicillin (MRSA), khiến việc quản lý kháng sinh trở nên phức tạp.
Các lựa chọn điều trị thay thế như Vancomycin, Linezolid, Daptomycin và Ceftaroline có thể được xem xét, đặc biệt với những trường hợp nhiễm trùng nặng.
Nhiễm trùng mô mềm hoại tử là tình trạng nguy hiểm, với tỷ lệ tử vong cao từ 20 - 70%.
Bệnh nhân cần được phẫu thuật khẩn cấp và điều trị kháng sinh phổ rộng nhằm chống lại các vi khuẩn gram dương, gram âm và kỵ khí. Đối với nhiễm trùng do S. pyogenes hoặc Clostridia, Penicillin kết hợp với Clindamycin là lựa chọn điều trị ưu tiên.
Các tác nhân ức chế độc tố như Clindamycin hoặc Linezolid cũng có thể hiệu quả với một số bệnh nhân bị nhiễm trùng mô mềm hoại tử.

Theo dõi sau quá trình điều trị nhiễm khuẩn da và mô mềm
Theo dõi sát các dấu hiệu sinh tồn, triệu chứng toàn thân và tại chỗ là cần thiết để phát hiện sự chuyển biến nặng nề, từ đó điều chỉnh phương pháp điều trị kịp thời.
Kiểm tra chức năng gan, thận và các chỉ số viêm (bạch cầu, tốc độ máu lắng, CRP) thường xuyên cũng rất quan trọng.
Thời gian điều trị thường kéo dài 4 - 6 tuần, tùy thuộc vào từng trường hợp lâm sàng.
Có thể chuyển sang dùng kháng sinh đường uống khi tình trạng ổn định sau 10-14 ngày, với điều kiện phải phù hợp kháng sinh đồ và kiểm soát tốt nhiễm trùng, cũng như các bệnh lý đi kèm.

Câu hỏi thường gặp
Nhiễm khuẩn da và mô mềm là gì?
Nhiễm khuẩn da và mô mềm là một nhóm bệnh lý quan trọng gây nhiễm khuẩn ở da và mô dưới da, gồm các loại bệnh như viêm mô tế bào, viêm cơ mủ, và nhiễm trùng mô mềm.


Tác nhân gây nhiễm khuẩn da và mô mềm là gì?
Các tác nhân gây nhiễm khuẩn da và mô mềm bao gồm Staphylococcus Aureus, Streptococcus Pyogenes, Haemophilus Influenzae, Aeromonas Hydrophila, Vibrio Species, Clostridium, và các vi khuẩn kỵ khí.


Chẩn đoán nhiễm khuẩn da và mô mềm?
Chẩn đoán nhiễm khuẩn da và mô mềm dựa trên triệu chứng lâm sàng và kiểm tra bằng phương pháp xét nghiệm vi sinh vật.


Phương pháp điều trị phổ biến cho nhiễm khuẩn da và mô mềm?
Phương pháp điều trị phổ biến bao gồm sử dụng kháng sinh, phẫu thuật khẩn cấp, và điều trị kháng sinh phổ rộng.


Biến chứng gì có thể xảy ra sau điều trị nhiễm khuẩn da và mô mềm?
Các biến chứng có thể xảy ra sau điều trị nhiễm khuẩn da và mô mềm bao gồm biến chứng sau phẫu thuật, nhiễm trùng tái phát, và tử vong.