Ghép tế bào gốc

Nhanh lên! Chỉ còn 49 mặt hàng trong kho

00 days
21 hrs
40 mins
58 secs

 

GHÉP TẾ BÀO GỐC TẠO MÁU
Phương pháp này đang được áp dụng cho những người bệnh mắc bệnh:
Đa u tủy, bạch cầu, u nguyên bào thần kinh.
Ghép tế bào gốc tạo máu (HSC) là một kỹ thuật có những bước tiến nhanh cung cấp một phương pháp điều trị tiềm năng cho các ung thư máu (bệnh bạch cầu, u lympho, đa u tủy xương) và các rối loạn huyết học khác (ví dụ, suy giảm miễn dịch tiên phát, thiếu máu giảm sinh, rối loạn sinh tủy).
Ghép tế bào gốc tạo máu đôi khi cũng được sử dụng cho các khối u đặc (ví dụ, một số khối u tế bào mầm) đáp ứng với hóa trị liệu.
Cấy ghép tế bào gốc tạo máu góp phần chữa khỏi bệnh bằng cách
Phục hồi tủy xương sau điều trị diệt tủy loại trừ ung thư
Thay thế tủy xương bất thường bằng tủy xương bình thường ở các rối loạn huyết học không ác tính
Ghép tế bào gốc tạo máu có thể là tự thân (sử dụng tế bào của chính bệnh nhân) hoặc đồng loại (sử dụng tế bào từ người hiến tặng).
Tế bào gốc có thể được thu thập từ
Tủy xương
Máu ngoại vi
Máu dây rốn
Máu ngoại vi đã thay thế tủy xương như một nguồn cung cấp tế bào gốc, đặc biệt trong ghép tế bào gốc tạo máu tự thân vì việc thu thập tế bào gốc dễ dàng hơn và bạch cầu trung tính, số lượng tiểu cầu hồi phục nhanh hơn.
Ghép tế bào gốc tạo máu từ dây rốn chủ yếu chỉ được thực hiện ở trẻ em vì có quá ít tế bào gốc trong máu dây rốn cho người lớn.
Một nguồn tế bào gốc tiềm năng trong tương lai có thể là các tế bào gốc vạn năng (một số tế bào lấy từ người lớn và được lập trình lại để hoạt động như các tế bào gốc).
Không có chống chỉ định ghép tế bào gốc tạo máu tự thân.
Chống chỉ định ghép tế bào gốc tạo máu dị hợp là tương đối và bao gồm
Lớn hơn > 50 tuổi
Ghép tế bào gốc tạo máu trước đó
Các bệnh đi kèm đáng kể (ví dụ, suy thận)
Ghép tế bào gốc tạo máu cùng loài bị hạn chế chủ yếu do thiếu người cho tương thích về mô học.
Người hiến tặng thông thường là anh chị em ruột giống nhau về kháng nguyên bạch cầu (HLA) là lý tưởng, tiếp theo là người hiến tặng anh chị em phù hợp với HLA.
Vì chỉ có một phần tư số bệnh nhân có người cho là anh chị em ruột nên người cho có cùng huyết thống không trùng hợp hoặc người cho không cùng huyết thống có trùng hợp (được xác định thông qua đăng ký quốc tế) thường được sử dụng.
Kỹ thuật ghép tế bào gốc tạo máu dây rốn tuy còn sơ khai nhưng đang được quan tâm.
Bởi vì máu dây rốn chứa các tế bào gốc chưa trưởng thành, sự kết hợp HLA dường như ít quan trọng hơn so với các loại ghép tế bào gốc tạo máu khác.
Một mối quan tâm về thủ thuật này là các tế bào miễn dịch trong máu cuống rốn không có kinh nghiệm với các loại vi rút gây nhiễm trùng tiềm ẩn, dẫn đến tỷ lệ tế bào T ngây thơ cao hơn và do đó làm tăng khả năng bị kích hoạt lại của cytomegalovirus hoặc nhiễm vi rút Epstein-Barr.
Thủ thuật
Cho thu thập tế bào gốc tủy xương, 700 đến 1500 mL (tối đa 15 mL/kg) tủy được hút ra từ mào chậu sau của người cho; sử dụng thuốc tê tại chỗ hoặc đường toàn thân.
Cho thu thập máu ngoại vi, người cho được điều trị với các yếu tố tăng trưởng tái tổ hợp (yếu tố kích thích dòng tế bào hạt hoặc yếu tố kích thích dòng tế bào hạt - đại thực bào) để kích thích tăng sinh và huy động các tế bào gốc; việc gạn tách tế bào gốc chuẩn được thực hiện 4 đến 6 ngày sau đó.
Để lấy máu cuống rốn, dây rốn được kẹp sau khi sinh em bé, và máu được lấy từ dây rốn bằng kim và được thu thập trong một túi vô trùng.
Việc phân loại tế bào hoạt hóa huỳnh quang được sử dụng để xác định và tách các tế bào gốc khỏi các tế bào khác.
Các tế bào gốc sau đó được truyền từ 1 đến 2 giờ thông qua một catheter tĩnh mạch trung tâm đường kính rộng.
Chế độ điều hoà
Trước khi ghép tế bào gốc tạo máu cùng loài cho ung thư, người nhận đầu tiên được sử dụng thuốc điều hòa (ví dụ thuốc diệt tủy xương như cyclophosphamide 60 mg/kg truyền tĩnh mạch một lần/ngày trong 2 ngày kết hợp chiếu xạ toàn thân liều đầy đủ hoặc busulfan 1 mg/kg uống 4 lần/ngày, kết hợp cyclophosphamide mà không kèm chiếu xạ toàn thân) để đạt được sự thuyên giảm bệnh và ức chế hệ miễn dịch giúp mô ghép có thể được chấp nhận.
Các phác đồ điều hòa tương tự được sử dụng trước khi ghép tế bào gốc tạo máu đồng loại, ngay cả khi ung thư không phải là chỉ định, để làm giảm tỷ lệ thải ghép và tái phát.
Phác đồ điều hòa như vậy không được sử dụng trước khi ghép tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị bệnh ung thư; thuốc đặc trị ung thư được sử dụng thay thế.
Các chế độ điều hòa không diệt tủy (chẳng hạn như cyclophosphamide, chiếu xạ tuyến ức, globulin kháng tế bào tuyến ức (ATG) và/hoặc cyclosporine) có thể làm giảm nguy cơ bệnh nặng và tử vong và có thể có ích cho các bệnh nhân cao tuổi, các bệnh nhân mắc các bệnh kèm theo và các bệnh nhân nhạy cảm với hiệu ứng mô ghép khối u (ví dụ, các bệnh nhân đa u tủy xương).
Phác đồ giảm cường độ (ví dụ, fludarabine với melphalan, busulfan đường uống, hoặc cyclophosphamide) có cường độ và độc tính giữa phác đồ có tủy và không tủy.
Kết quả tế bào chất có thể kéo dài và gây ra bệnh nặng và tử vong, và cần hỗ trợ tế bào gốc.
Sau ghép
Sau khi ghép tế bào gốc tạo máu, người nhận được cung cấp các yếu tố kích thích khuẩn lạc để rút ngắn thời gian giảm bạch cầu sau ghép, thuốc chống nhiễm trùng dự phòng, và sau khi ghép tế bào gốc tạo máu đồng loài, thuốc ức chế miễn dịch dự phòng (điển hình là methotrexate và cyclosporine) trong tối đa 6 tháng để ngăn ngừa các tế bào T của người cho khỏi phản ứng chống lại các phân tử HLA của người nhận (bệnh mảnh ghép chống ký chủ).
Các kháng sinh phổ rộng thường không được dùng trừ khi có sốt.
Quá trình cấy ghép thường xảy ra từ 10 đến 20 ngày sau khi ghép tế bào gốc tạo máu (sớm hơn với tế bào gốc máu ngoại vi) và được xác định bằng số lượng bạch cầu trung tính tuyệt đối > 500/mcL (> 0,5 × 109/L).
Các biến chứng của cấy ghép tế bào gốc tạo máu
Các biến chứng của ghép tế bào gốc có thể xuất hiện sớm (< 100 ngày sau ghép) hoặc sau muộn hơn. Sau ghép tế bào gốc tạo máu dị ghép, nguy cơ nhiễm trùng sẽ tăng lên.
Các biến chứng sớm
Ghép thất bại
Thải ghép
Bệnh ghép chống chủ (GVHD)
Ghép thất bại và thải ghép ảnh hưởng đến < 5% số bệnh nhân và biểu hiện như giảm 3 dòng kéo dài hoặc giảm không hồi phục các tế bào máu. Điều trị bằng corticosteroid trong vài tuần.
Bệnh ghép chống chủ (GVHD) cấp trong đó các tế bào miễn dịch từ người hiến tấn công mô ở người nhận, xảy ra ở những người nhận ghép tế bào gốc tạo máu cùng loài (ở 40% người nhận mô ghép từ anh chị em ruột trùng hợp HLA và 80% những người nhận mô ghép từ người cho không cùng huyết thống). Bệnh gây sốt, nổi ban, viêm gan với tăng bilirubin máu, nôn ói, tiêu chảy, đau bụng (có thể tiến triển đến tắc ruột) và giảm cân.
Các yếu tố nguy cơ của bệnh ghép chống chủ cấp bao gồm
Không trùng HLA và không cùng giới tính
Người cho không cùng huyết thống
Người nhận hoặc người cho tuổi cao hoặc cả hai
Tiền mẫn cảm ở người cho
Dự phòng bệnh ghép chống chủ không đầy đủ
Chẩn đoán bệnh ghép chống chủ cấp dựa vào tiền sử, thăm khám lâm sàng, kết quả xét nghiệm về gan. Điều trị bằng methylprednisolone 2 mg/kg truyền tĩnh mạch một lần/ngày, tăng lên 10 mg/kg nếu không đáp ứng trong vòng 5 ngày.
Các biến chứng muộn
Bệnh ghép chống chủ mạn tính
Tái phát bệnh
Bệnh ghép chống chủ mạn tính có thể tự xảy ra, phát triển từ bệnh ghép chống chủ cấp hoặc xảy ra sau điều trị bệnh ghép chống chủ cấp. Nó thường xảy ra sau khi ghép tế bào gốc tạo máu (từ 2 tháng đến 2 năm) từ 4 đến 7 tháng.
Bệnh GVHD mạn tính xảy ra ở những người nhận ghếp tế bào gốc tạo máu cùng loài (khoảng 35 đến 50% người nhận mô ghép từ anh chị em ruột có trùng hợp HLA và 60 đến 70% người nhận mô ghép từ người cho không cùng huyết thống).
GVHD mạn tính ảnh hưởng chủ yếu đến da (ví dụ: phát ban lichenoid, thay đổi da xơ cứng) và màng nhầy (ví dụ: viêm kết mạc giác mạc, viêm nha chu, phản ứng lichenoid sinh dục), nhưng nó cũng ảnh hưởng đến đường tiêu hóa và gan.
Suy giảm miễn dịch là dấu hiệu chính; viêm tiểu phế quản tắc nghẽn tương tự như tình trạng sau ghép phổi có thể xuất hiện. Cuối cùng, bệnh ghép chống chủ gây tử vong ở 20 đến 40% số bệnh nhân mắc bệnh.
Điều trị có thể không cần thiết đối với bệnh ghép chống chủ chỉ ảnh hưởng đến da và niêm mạc; điều trị các trường hợp bệnh phức tạp hơn tương tự như điều trị bệnh ghép chống chủ cấp.
Diệt tế bào T của các mô ghép được hiến cùng loài sử dụng các kháng thể đơn dòng hoặc gạn tách cơ học giúp làm giảm tỷ lệ và mức độ nặng của bệnh ghép chống chủ nhưng cũng làm giảm hiệu ứng mô ghép - khối u, hiệu ứng kích thích tăng sinh tế bào gốc và mô ghép đồng thời làm giảm tỷ lệ tái phát bệnh.
Tỷ lệ tái phát khi ghép tế bào gốc tạo máu tự thân cao hơn vì không có hiệu ứng mảnh ghép chống khối u và vì các tế bào khối u trong hệ tuần hoàn có thể vô tình bị thu thập cùng với tế bào gốc và được cấy ghép.
Gạn tách các tế bào khối u ngoài cơ thể trước ghép tự thân hiện đang còn nghiên cứu.
Ở những bệnh nhân không có bệnh ghép chống chủ mạn tính, tất cả các thuốc ức chế miễn dịch có thể được ngừng tại thời điểm 6 tháng sau ghép tế bào gốc tạo máu; các biến chứng muộn ở những bệnh nhân này hiếm xảy ra.
Tiên lượng về cấy ghép tế bào gốc tạo máu
Tiên lượng sau khi ghép tế bào gốc tạo máu thay đổi tùy theo loại ghép (tự thân so với đồng sinh) và bệnh của người nhận.
Nhìn chung, tái phát bệnh xảy ra ở
40 đến 75% số người nhận ghép tế bào gốc tạo máu tự thân
10 đến 40% số người nhận ghép tế bào gốc tạo máu dị sinh
Nhìn chung, tỷ lệ thành công (tủy xương không có ung thư) là
30 đến 40% đối với các bệnh nhân u lympho tái phát, nhạy cảm với hóa trị liệu
20 đến 50% đối với các bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu cấp
So với hoá trị liệu đơn thuần, ghép tế bào gốc tạo máu giúp cải thiện thời gian sống thêm của các bệnh nhân đa u tủy xương.
Tỷ lệ thành công thấp đối với những bệnh nhân có bệnh tiến triển hoặc ung thư tạng đặc nhạy cảm (ví dụ, các khối u tế bào mầm).
Tỷ lệ tái phát giảm ở những bệnh nhân mắc bệnh ghép chống chủ (GVHD), nhưng tỷ lệ tử vong chung tăng lên nếu bệnh ghép chống chủ trầm trọng.
Các biện pháp điều trị tích cực, điều trị dự phòng GVHD hiệu quả, biện pháp dựa trên cyclosporine và chăm sóc hỗ trợ cải tiến (ví dụ, kháng sinh khi cần, dự phòng herpesvirus và cytomegalovirus) làm tăng tỷ lệ sống còn không bệnh kéo dài sau ghép tế bào gốc tạo máu.

TIP
Cấy ghép tế bào gốc là phương pháp điều trị hiện đại, tối ưu cho những trường hợp mắc bệnh về máu, ung thư…, từ lành tính đến ác tính. 
Phương pháp ghép tế bào gốc (hay cấy ghép tế bào gốc) có thể giúp cơ thể người bệnh khôi phục lại khả năng tạo máu cũng như tái tạo các tế bào miễn dịch cho cơ thể.
Phương pháp này thường được áp dụng cho những người bệnh ung thư đã trải qua quá trình hóa trị ở liều cao, khi tiêu diệt tế bào ung thư cũng đồng thời tiêu diệt luôn tế bào gốc trong tủy xương người bệnh.
Cấy ghép tế bào gốc máu chính là phương pháp điều trị tiêu chuẩn để có thể phục hồi khả năng tái tạo máu và những tế bào miễn dịch trong cơ thể người bệnh.
Những tế bào gốc tạo máu này hoàn toàn có thể phát triển thành bấy kỳ tế bào máu nào trong 3 loại: bạch cầu, hồng cầu, tiểu cầu.
Ở người bệnh ung thư, quá trình điều trị bằng phương pháp xạ trị hay hóa trị liều cao có thể dẫn đến các tổn thương hết sức nghiêm trọng đến tế bào máu ở tủy, xương.
Chính vì vậy, người bệnh bạch cầu, u tủy, ung thư hạch, hội chứng rối loạn sinh tủy, ung thu máu,… sau hóa/xạ trị có thể được áp dụng phương pháp ghép tế bào gốc để có thể phần nào phục hồi hệ miễn dịch trong cơ thể.
Người bệnh mắc các rối loạn hệ thống miễn dịch, rối loạn tủy xương cũng có thể cấy ghép tế bào gốc để cải thiện tình trạng bệnh.
Nguồn tế bào gốc sử dụng để cấy ghép
Từ tủy xương.
Từ máu ngoại vi.
Từ máu ở cuống rốn đã được thu thập l từ cuống rốn, nhau thai khi em bé vừa chào đời. Máu ở cuống rốn và nhau thai chứa lượng lớn tế bào gốc giúp tạo máu.
Tế bào gốc lấy từ nguồn này sẽ được sàng lọc, trải qua quá trình đông lạnh và lưu trữ tại ngân hàng tế bào gốc.
Việc sử dụng tế bào gốc đến từ nguồn nào đóng vai trò rất quan trọng, tác động trực tiếp đến hiệu quả điều trị của người bệnh.
Tốt nhất nên cấy ghép tế bào gốc từ nguồn tự thân hoặc từ người thân có cùng huyết thống để có thể giảm thiểu khả năng tế bào bị đào thải gây nên nhiều tác dụng phụ bất lợi cho người bệnh.
Để được sử dụng cho quá trình cấy ghép tế bào gốc, tế bào gốc được sử dụng phải là tế bào khỏe mạnh, non trẻ, chưa từng chịu tác động từ môi trường hay tuổi tác như tế bào gốc từ mô và máu dây rốn của trẻ sơ sinh.
Loại tế bào gốc này sẽ được lưu trữ đúng cách từ khi trẻ sơ sinh chào đời và trở thành công cụ đắc lực cho quá trình điều trị các bệnh lý nguy hiểm trong tương lai, cho cả người lưu mẫu hoặc người thân cùng huyết thống.
Sự phát triển của công nghệ y học tái tạo ngày càng cao, giúp mở rộng cơ hội ứng dụng phương pháp ghép tế bào gốc trong điều trị (hay hỗ trợ điều trị) cho ngày càng nhiều bệnh lý nguy hiểm khác nhau.
Lợi ích của ghép tế bào gốc
Cấy ghép tế bào gốc có ý nghĩa rất lớn đối với y học nói chung và đối với người bệnh nói riêng. Phương pháp này góp phần rất lớn trong việc điều trị bệnh bằng cách thức:
Khôi phục tế bào sống trong tủy xương sau quá trình điều trị diệt tủy để loại bỏ tế bào ung thư trong cơ thể người bệnh.
Thay thế các tế bào tủy xương bất thường bằng tủy xương bình thường tại các rối loạn huyết học lành tính.
Nhờ có phương pháp ghép tế bào gốc mà các tế bào mắc bệnh có thể được thay thế bằng tế bào khỏe mạnh.
Tế bào gốc cũng có thể được phát triển thành các loại tế bào khác nhau như tế bào cơ tim, tế bào thần kinh, máu,… và những tế bào được hình thành sau này sẽ được sử dụng cho mục đích tái tạo mô bệnh trong cơ thể con người.
Đây chính là tin vui cho những ai mắc các bệnh lý tim, đột quỵ, viêm xương khớp, bỏng, tiểu đường tuýp I, Alzheimer, xơ cứng teo một bên cơ,…
Các phương thức cấy ghép tế bào gốc
Ghép tế bào gốc là quá trình đưa tế bào gốc đã được sàng lọc truyền vào cơ thể người bệnh thông qua đường ven tĩnh mạch.
Khi các tế bào gốc này di chuyển vào cơ thể sẽ tiếp tục di chuyển về tủy xương và sẽ thay thế những tế bào đã bị tổn thương (hoặc bị phá hủy) do hóa/xạ trị.
Có 3 phương thức:
Cấy ghép tế bào tự thân: 
Tế bào gốc được phân lập từ máu ngoại vi hoặc từ tủy xương của chính người bệnh.
Cấy ghép dị thân hay còn gọi là cấy ghép chéo: 
Tế bào gốc này được lấy từ người hiến tặng, người này có thể cùng hoặc không cùng huyết thống chỉ cần tế bào được sử dụng này tương thích với người bệnh được cấy ghép.
Cấy ghép đồng nguyên: 
Đây là quá trình cấy ghép tế bào gốc từ người anh/chị em sinh đôi của người bệnh.
Quy trình ghép tế bào gốc
Bước 1: Thu nhận mẫu tế bào gốc
Ở bước này, người bệnh hoặc người cho mẫu sẽ được tiêm một vài loại thuốc giúp thúc đẩy sự tăng sinh số lượng tế bào gốc. Bác sĩ sẽ thu nhận mẫu tế bào gốc này thông qua ống truyền tĩnh mạch hoặc thông qua catheter được đặt tại vein lớn ở ngực.
Thời gian thực hiện: Khoảng vài ngày tùy vào thể trạng của người bệnh (hoặc người cho mẫu).
Lưu ý: Người bệnh không cần ở lại bệnh viện trong suốt quá trình thực hiện bước thu nhận mẫu tế bào gốc.
Bước 2: Tiến hành cấy ghép tế bào gốc
Thực hiện cấy ghép.
Người bệnh sẽ trải qua quá trình điều trị (phác đồ chuẩn bị), ở bước này, sẽ sử dụng hình thức hóa trị (có hoặc không có bức xạ) để tiến hành tiêu diệt tế bào ung thư.
Thời gian thực hiện: 
Quá trình có thể diễn ra từ 5 đến 10 ngày.
Người bệnh cần phải lưu trú tại bệnh viện để tiến hành điều trị (khoảng 3 tuần).
Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp người bệnh được bác sĩ cho phép đến mỗi ngày để điều trị thay vì lưu trú tại bệnh viện.
Bước 3: Nhận lại mẫu tế bào gốc
Bước này còn được gọi là thực hiện truyền tế bào gốc, thực hiện truyền lại tế bào gốc vào máu của người bệnh thông qua catheter ghép.
Thời gian thực hiện: Dưới 30 phút/lần truyền và người bệnh cần phải truyền nhiều hơn 1 lần.
Bước 4: Phục hồi
Người bệnh sẽ được chỉ định sử dụng thuốc kháng sinh hoặc một vài loại thuốc khác. Một số trường hợp sẽ được chỉ định truyền thêm máu vào cơ thể.
Thời gian thực hiện: Người bệnh cần phải thực hiện giai đoạn này khoảng 2 tuần.
Lúc này, người bệnh cần được bảo vệ khỏi các tác nhân gây nhiễm trùng.
Vì vậy, người thân khi ra vào phòng bệnh cần phải sát khuẩn sạch sẽ, mang khẩu trang, gang tay đầy đủ. Người thân cũng không được mang thực phẩm trái cây tươi vào phòng bệnh vì đây có thể là nguyên nhân gây nên vi khuẩn, nấm mốc.
Tiên lượng tỷ lệ thành công của phương pháp ghép tế bào gốc
Tiên lượng tỷ lệ thành công ở nhóm cấy ghép tế bào gốc tự thân và tế bào gốc đồng loại khá cao.
Cụ thể, tỷ lệ thành công cho phương thức cấy ghép tế bào gốc tự thân là khoảng 70% và cấy ghép tế bào gốc đồng loại là khoảng 63%.
Kết quả cấy ghép các tế bào gốc thành công ở nhóm lành tính chiếm tỷ lệ khoảng 90% và ở nhóm bệnh ác tính là 56,5%.
Đối với phương thức tế bào gốc đồng loài, nhóm bệnh lành tính có tỷ lệ người bệnh với thời gian sống toàn bộ (OS) 3 năm chiếm tỷ lệ 83% và ở nhóm bệnh ác tính là 47%.
Thời gian sống không bệnh (DFS) là 3 năm sau cấy ghép tế bào đồng loại ở nhóm bệnh lành tính có tỷ lệ 73%, bệnh ác tính là 56%.
Nghiên cứu y khoa cho thấy tỷ lệ tái phát bệnh sau khi thực hiện phương pháp tế bào gốc 5 năm khoảng 40% và sau 7 năm là khoảng 70%.
Biến chứng cấy ghép tế bào gốc
Ở những tháng đầu tiên của quá trình phục hồi sau cấy ghép, người bệnh có thể cảm thấy suy nhược, mệt mỏi, kiệt sức, có thể kèm theo một số tác dụng phụ không mong muốn như: tâm trạng buồn bã, khẩu vị thay đổi, cảm cúm, buồn nôn,…
Người bệnh cần kiên nhẫn trong giai đoạn này vì cơ thể đang xây dựng hệ miễn dịch mới hoàn toàn nên cần thời gian để thích nghi.
Có thể sẽ gặp một vài tác dụng phụ khác tồn tại sau khi ghép tế bào gốc. Trong số đó có thể kể đến những tác dụng phụ của quá trình hóa/xạ trị liều cao gây nên.
Biến chứng từ quá trình cấy ghép tế bào gốc tự thân
Những biến chứng có thể xảy ra từ ghép tế bào gốc tự thân bao gồm:
Thiếu máu và xuất huyết
Nhiễm trùng sau quá trình cấy ghép
Bệnh lý phổi kẽ (viêm mô liên kết)
Gan bị tổn thương
Tổn thương vùng miệng, phổi, thực quản và một số cơ quan khác
Trong một vài trường hợp hiếm gặp người bệnh có khả năng gặp phải tình trạng vô sinh (nếu trải qua quá trình xạ trị toàn thân), đục thủy tinh thể, ung thư tái phát (thời gian tái phát có thể là khoảng 10 năm sau quá trình điều trị thành công đầu tiên).
Các phương án để giải quyết các biến chứng cho người bệnh sau cấy ghép tế bào gốc.
Chỉ định dùng thuốc kháng nấm/virus, kháng sinh có thể ngăn ngừa hoặc điều trị nhiễm trùng do nấm/virus, vi khuẩn gây nên.
Kê cho người bệnh một số loại thuốc giúp thúc đẩy tốc độ phát triển của hệ miễn dịch mới.
Biến chứng của quá trình cấy ghép tế bào gốc dị thân
Biến chứng phổ biến của quá trình cấy ghép này chính là bệnh ghép chống chủ (GvHD).
Bệnh lý này sẽ phát triển khi tế bào máu hình thành từ các tế bào gốc dị thân xem tế bào trong cơ thể bạn là vật thể lạ và bắt đầu tấn công chúng.
Bệnh ghép chống chủ chiếm tỉ lệ xảy ra khoảng 30 – 70% người nhận cấy ghép tế bào gốc từ người hiến.
Thông thường bệnh sẽ không quá trầm trọng nhưng nếu không điều trị kịp thời sẽ dẫn đến đe dọa tính mạng của người bệnh.
Các triệu chứng phổ biến:
Phát ban, ngứa ngáy và bong tróc da
Rụng tóc kéo dài
Các triệu chứng rối loạn tiêu hóa (tiêu chảy, đau bụng, buồn nôn, ói mửa)
Viêm gan (biểu hiện vàng da)
Tổn thương thực quản, miệng, phổi và những cơ quan khác
Độ tương thích giữa người hiến và người nhận tế bào gốc sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến nguy cơ phát sinh bệnh ghép chống chủ.
Ngoài ra, quá trình hóa/xạ trị với phạm vi rộng trên toàn cơ thể cũng sẽ làm tăng nguy cơ gây ra bệnh ghép chống chủ.
Chi phí ghép tế bào gốc
Phương pháp cấy ghép tế bào gốc được xem là “cuộc cách mạng” lớn trong y học.
Đây là cách điều trị tối ưu giúp cho nhiều người bệnh mắc bệnh máu ác tính/lành tính có cơ hội tìm lại cuộc sống bình thường. 
Ghép tế bào gốc bao nhiêu tiền phụ thuộc vào nhiều yếu tố: nguồn tế bào gốc, phương pháp thực hiện, tình trạng nhiễm trùng, khả năng xảy ra biến chứng,… của từng người bệnh.
Tham khảo khoảng chi phí ghép tế bào gốc :
Chi phí ghép tế bào gốc tự thân: dao động từ 100 đến 200 triệu đồng
Chi phí ghép tế bào gốc đồng loài cùng huyết thống phù hợp: dao động từ 400 đến 600 triệu đồng
Chi phí ghép tế bào gốc từ máu dây rốn: dao động từ 600 đến dưới 900 triệu đồng
Chi phí ghép tế bào gốc nửa hòa hợp: dao động từ 600 đến 700 triệu đồng
Chi phí ghép tế bào gốc nửa hòa hợp kết hợp với tế bào gốc máu dây rốn khá cao, dao động từ 1 tỷ đến 1,2 tỷ đồng
Đồng thời có những trường hợp đặc biệt chi phí ghép tế bào gốc có thể cao hoặc thấp hơn chi phí tham khảo nêu trên.
Lưu ý, bảng giá trên đây là bảng giá tham khảo bệnh nhân cần liên hệ trực tiếp bệnh viện để được tư vấn cụ thể về chi phí tại thời điểm sử dụng dịch vụ.
Câu hỏi thường gặp
Cấy ghép tế bào gốc mất bao lâu?
Quá trình này sẽ mất khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, thời gian này đã bao gồm các khâu: chuẩn bị, tiến hành cấy ghép và kiểm tra sau quá trình phẫu thuật.
Tổng thời gian thực hiện cấy ghép tế bào gốc có thể mất khoảng ít nhất vài tháng đối với những trường hợp người bệnh mắc ung thư máu.
Ghép tế bào gốc có nguy hiểm không
Trong các trường hợp cấy ghép dị sinh có thể phát triển ra một số vấn đề quan trọng: bệnh ghép vật chủ.
Có thể gây nên những tổn thương cho gan, ruột, các cơ quan khác.
Phương pháp ghép tế bào gốc có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe tinh thần của người bệnh.
Đa phần, người bệnh sẽ có tâm lý lo sợ, căng thẳng tột độ trước khi thực hiện cấy ghép.
Người bệnh nên giải tỏa bớt tâm lý trước khi thực hiện phẫu thuật điều trị bằng cách tâm sự với bạn bè, người thân.
Ai nên sử dụng phương pháp cấy ghép tế bào gốc
Phương pháp này đang được áp dụng cho những người bệnh mắc bệnh:
Đa u tủy, bạch cầu, u nguyên bào thần kinh.