BỆNH GIANG MAI
Bệnh giang mai ở nam là bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI) do xoắn khuẩn giang mai Treponema pallidum gây ra.
Nếu không được điều trị, giang mai gây ra các vấn đề sức khỏe như: tổn thương da, hệ cơ xương khớp, tim mạch và thần kinh.
Xoắn khuẩn gây bệnh giang mai Treponema pallidum phát triển mạnh ở nhiệt độ 37 độ C nhưng chết trong vài giờ nếu ở môi trường bên ngoài cơ thể người, xà phòng có thể tiêu diệt xoắn khuẩn trong vài phút.
Bệnh giang mai lây do quan hệ tình dục không an toàn (có thể bằng miệng, âm đạo và hậu môn), thậm chí bệnh lây nhiễm từ mẹ sang con hay qua truyền máu.
Nhiều người mắc bệnh giang mai không có triệu chứng.
Ở phụ nữ đang mang thai, nếu điều trị không kịp thời, không đúng phác đồ thì có đến 50% – 80% trường hợp thai chết lưu, trẻ sơ sinh tử vong và trẻ sinh ra mắc bệnh giang mai bẩm sinh.
Dấu hiệu giang mai ở nam giới
Trong một vài trường hợp không nhận thấy bất kỳ dấu hiệu giang mai nào ở nam giới.
Nếu không được điều trị, bệnh giang mai sẽ kéo dài nhiều năm.
Bệnh giang mai có nhiều giai đoạn, các giai đoạn có những dấu hiệu khác nhau.
Có 2 loại giang mai là giang mai mắc phải và giang mai bẩm sinh với các triệu chứng như sau:
1. Giang mai mắc phải
1.1 Giai đoạn sơ cấp (Thời kỳ I)
Giai đoạn sơ cấp hay giai đoạn 1, được y học gọi là giang mai thời kỳ 1, thường xuất hiện triệu chứng trong khoảng 3 tuần (khoảng 9 – 90 ngày) tính từ khi phơi nhiễm.
Trong thời gian này, các vết loét cứng (săng), không đau, bắt đầu xuất hiện ở bộ phận sinh dục, hậu môn.
Các săng do giang mai không gây đau hay khó chịu và tự lành trong 3 – 10 tuần.
Vài trường hợp, người bệnh không có hoặc không phát hiện bất kỳ triệu chứng nào.
Nếu không được điều trị, giang mai ở nam giới dễ tiến triển sang giai đoạn thứ cấp (thời kỳ II).
1.2 Giai đoạn thứ cấp (Thời kỳ II)
Giai đoạn thứ cấp, y học gọi là giang mai thời kỳ 2, bệnh có dấu hiệu phát ban không ngứa, các nốt ban đỏ thường xuất hiện ở lòng bàn tay, lòng bàn chân.
Phát ban do giang mai có nhiều hình dạng khác nhau.
Các vết săng thương có dạng như các vết trợt màu trắng hoặc xám, xuất hiện ở những vùng ấm và ẩm như trong bao quy đầu, hậu môn, niêm mạc lưỡi, miệng,… tự biến mất sau thời gian.
Các sẩn giang mai có thể xuất hiện trong giai đoạn này.
Chúng có hình bán cầu, xung quanh có các viền như vảy.
Sẩn giang mai xuất hiện ở các vùng da khác nhau, đa dạng về hình thái như:
Sẩn vảy nến, sẩn dạng thủy đậu, sẩn dạng trứng cá, sẩn loét trên da,…
Ở vị trí hậu môn, dương vật, có thể xuất hiện sẩn sùi giang mai (condylomata lata), đặc trưng với các vết trợt nông, nổi cộm lên và có màu trắng hoặc xám do lây nhiễm giang mai từ các tổn thương nguyên phát.
Giang mai thời kỳ II có thể xuất hiện kèm các triệu chứng không đặc hiệu như sốt cao, mệt mỏi, đau đầu, rụng tóc, nổi hạch.
Tương tự như thời kỳ I, các triệu chứng giang mai thời kỳ II có thể biến mất kể cả khi không điều trị và âm thầm tiến triển sang giang mai tiềm ẩn.
Tỷ lệ lây lan giang mai giai đoạn 2 cao.
1.3 Giai đoạn tiềm ẩn (Giang mai kín)
Giai đoạn tiềm ẩn còn được gọi là giang mai kín.
Ở giai đoạn này, bệnh gần như không có bất kỳ dấu hiệu nào.
Người bệnh chỉ có thể phát hiện bệnh khi làm xét nghiệm huyết thanh.
Giang mai kín được chia làm 2 giai đoạn:
Giang mai kín sớm: thời gian mắc bệnh kéo dài dưới 2 năm.
Giang mai kín muộn: thời gian mắc bệnh kéo dài trên 2 năm.
Trong trường hợp không xác định chính xác thời gian mắc bệnh, tất cả trường hợp giang mai kín được điều trị theo phác đồ giang mai kín giai đoạn muộn.
Giang mai mắc phải lây truyền qua đường tình dục chủ yếu lây trong thời kỳ I, II và giang mai kín giai đoạn sớm.
Ước tính, có khoảng 25% giang mai kín không được điều trị sẽ chuyển sang giang mai giai đoạn cuối (thời kỳ III).
1.4 Giai đoạn cuối (Giang mai thời kỳ III)
Giang mai giai đoạn cuối được gọi là giang mai thời kỳ III, ảnh hưởng đến bất kỳ cơ quan nào trong cơ thể.
Giang mai thời kỳ III có thể xảy ra sau 30 năm kể từ khi nhiễm khuẩn, khiến nhiều người chủ quan.
Dấu hiệu lâm sàng của giang mai thời kỳ III chính là các biểu hiện của giang mai thần kinh, giang mai tim mạch và các tổn thương gôm giang mai, bao gồm:
Giang mai thần kinh:
Thay đổi trạng thái tâm thần cấp tính;
Viêm màng não;
Đột quỵ;
Rối loạn chức năng dây thần kinh sọ;
Bất thường về thính giác và thị lực,…
Do vi khuẩn giang mai gây tổn thương các rễ thần kinh sau cột sống.
Giang mai tim mạch:
Viêm động mạch chủ;
Phình động mạch chủ;
Hở van động mạch chủ;
Hẹp động mạch vành;
Viêm cơ tim.
Gôm giang mai:
Là những tổn thương đặc trưng của giang mai thời kỳ III, gôm giang mai gây tổn thương lớp hạ bì da.
Ban đầu gôm là những cục nằm bên dưới da, chúng dần phát triển to ra, mềm và chứa đầy dịch như nhựa cao su, khi vỡ ra tạo thành vết loét và để lại sẹo.
Gôm có thể xuất hiện trên bất kỳ vị trí nào, thường gặp nhất là ở miệng, môi, lưỡi, mũi, hầu,… có trường hợp gôm giang mai xuất hiện trong não.
2. Giang mai bẩm sinh
Giang mai bẩm sinh được xác định khi:
Thai phụ dương tính với giang mai.
Bị sảy thai hoặc thai chết lưu ở tuần thứ 20.
Trẻ dưới 2 tuổi có biểu hiện lâm sàng của bệnh.
Dấu hiệu giang mai bẩm sinh bao gồm:
Thai chết lưu hoặc sinh non ở 3 tháng giữa hoặc 3 tháng cuối thai kỳ.
Biểu hiện giang mai bẩm sinh với trẻ dưới 2 tuổi:
Bọng nước, viêm màng não, viêm mũi, viêm thanh quản, hạc, lá lách to, viêm xương sụn, viêm màng mạch – võng mạc.
Biểu hiện giang mai bẩm sinh ở trẻ trên 2 tuổi:
Viêm tai, viêm mắt, viêm khớp, dị dạng xương, các di chứng do tổn thương giang mai khi dưới 2 tuổi.
Hầu hết trường hợp trẻ sơ sinh không có dấu hiệu, triệu chứng điển hình khi mắc giang mai bẩm sinh.
Nguyên nhân nam giới bị giang mai
Nguyên nhân nam giới bị giang mai là do bẩm sinh hoặc lây nhiễm xoắn khuẩn Treponema pallidum (giang mai mắc phải).
Bệnh giang mai dễ lây lan ở thời kỳ I và II.
Đôi khi, nó cũng dễ lây lan trong thời kỳ giang mai kín giai đoạn muộn, xảy ra trong vòng 2 năm sau khi nhiễm bệnh.
1. Quan hệ tình dục không an toàn
Quan hệ tình dục không an toàn là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh giang mai.
Vi khuẩn Treponema pallidum lây lan khi tiếp xúc với vết loét của người bị nhiễm bệnh.
Quan hệ tình dục không an toàn qua đường âm đạo, miệng hoặc hậu môn đều bị nhiễm bệnh.
Vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể thông qua các vết cắt hoặc vết xước nhỏ trên da hoặc lớp lót ẩm bên trong của một số bộ phận cơ thể.
2. Tiếp xúc với vết loét giang mai
Vết loét giang mai chứa vi khuẩn gây bệnh.
Do đó, nếu người bệnh có vết loét trên môi, lưỡi, miệng, vú hoặc bộ phận sinh dục của sẽ dễ lây cho người khác.
Vi khuẩn giang mai có thể truyền sang em bé trong quá trình mang thai và sinh nở và đôi khi qua việc cho con bú.
3. Di truyền
Giang mai do di truyền hoặc giang mai bẩm sinh là một bệnh nhiễm trùng nặng, gây tàn tật và thường đe dọa tính mạng ở trẻ sơ sinh.
Nếu thai phụ bị nhiễm bệnh giang mai và không được điều trị đầy đủ, nhiễm trùng truyền qua nhau thai đến thai nhi.
4. Sử dụng chung dụng cụ cá nhân
Xoắn khuẩn giang mai có thể lây lan gián tiếp qua các đồ dùng, vật dụng nhiễm khuẩn như bàn chải đánh răng, son môi, khăn tắm,…
Khi tiếp xúc, xoắn khuẩn sẽ xâm nhập vào cơ thể qua các vết loét, vết xước trên da hoặc niêm mạc.
5. Tiếp xúc máu hoặc các dịch tiết từ người bệnh
Khi tiếp xúc với máu hoặc dịch tiết lẫn máu của người bệnh như truyền máu, dùng chung bơm kim tiêm, tiêm chích ma túy tập thể,… sẽ bị lây giang mai.
Bệnh giang mai không thể lây lan qua tiếp xúc thông thường với đồ vật mà người nhiễm bệnh đã chạm vào.
Một người không thể mắc giang mai khi sử dụng chung nhà vệ sinh, bồn tắm, quần áo, dụng cụ ăn uống, tay nắm cửa, bể bơi hoặc bồn tắm nước nóng.
Sau khi được chữa khỏi, bệnh giang mai sẽ không tự tái phát nếu không phơi nhiễm xoắn khuẩn.
Bệnh giang mai ở nam giới có nguy hiểm không?
Bệnh giang mai ở nam giới được bác sĩ Nam khoa đánh giá không quá nguy hiểm, có thể điều trị được. Thời kỳ I và II là điểm vàng để điều trị giang mai.
Nếu không được can thiệp điều trị kịp thời ở giai đoạn sớm, giang mai ở nam giới khi chuyển sang giai đoạn tiềm ẩn hoặc giai đoạn muộn, dẫn đến nhiều biến chứng kéo dài trong vài chục năm.
Ở giai đoạn muộn, giang mai ảnh hưởng đến nhiều cơ quan và hệ thống, bao gồm: não, dây thần kinh, mắt, gan, tim, mạch máu, xương và khớp,… có thể gây tử vong.
Biến chứng giang mai ở nam giới
Xoắn khuẩn giang mai Treponema pallidum có thể làm tổn thương mọi loại mô và mọi cơ quan trong cơ thể.
Chúng tồn tại trong cơ thể vô thời hạn, đe dọa đến sức khỏe toàn bộ cơ quan.
Nếu không được can thiệp điều trị kịp thời, giang mai ở nam giới gây các biến chứng nguy hiểm.
Sau khi bị nhiễm trùng và trước khi xuất hiện các vết loét đầu tiên, xoắn khuẩn đã xâm nhập vào máu và hệ bạch huyết.
Treponema pallidum là những vi sinh vật hình xoắn ốc, mỏng, nên dễ dàng xâm chiếm mọi ngóc ngách trong cơ thể.
Vi khuẩn có thể xâm nhập vào tim, xương và đường tiêu hóa, gây ảnh hưởng đến thính giác, thị giác và tất cả các cơ quan chính trong cơ thể, xâm lấn vào gan, da và đi khắp nọi nơi để phá hủy các cơ quan.
Treponema pallidum đi qua nhau thai để lây nhiễm sang thai nhi.
Phụ nữ mang thai khi nhiễm giang mai có nguy cơ bị thai chết lưu.
Khi vi khuẩn lây nhiễm vào hệ thần kinh trung ương là não và tủy sống, dẫn đến giang mai thần kinh.
Đây là loại giang mai nguy hiểm nhất, gây mù lòa, điên loạn, tê liệt hệ thống thần kinh và dẫn đến tử vong.
Khi nào cần phải gặp bác sĩ?
Đến gặp bác sĩ Nam khoa, bác sĩ Da liễu ngay nếu có bất kỳ triệu chứng nào của bệnh giang mai.
Chúng bao gồm: bất kỳ dịch tiết bất thường ở bộ phận sinh dục, vết loét hoặc phát ban, đặc biệt là ở vùng háng.
Thực hiện xét nghiệm tầm soát giang mai nếu:
Đã quan hệ tình dục với người có thể mắc bệnh.
Mắc một bệnh lây truyền qua đường tình dục khác như HIV.
Đang mang thai.
Thường xuyên quan hệ tình dục với nhiều bạn tình.
Quan hệ tình dục không an toàn, không dùng bao cao su.
Chẩn đoán giang mai ở nam giới như thế nào?
Bệnh giang mai có thể ủ bệnh và âm thầm khởi phát các triệu chứng mà người bệnh không hay biết.
Xét nghiệm xoắn khuẩn gần như là biện pháp duy nhất chẩn đoán giang mai.
1. Chẩn đoán gián tiếp bằng xét nghiệm huyết thanh giang mai
Có 2 loại xét nghiệm huyết thanh để chẩn đoán giang mai là xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu và đặc hiệu:
Xét nghiệm không đặc hiệu:
Là dạng xét nghiệm chẩn đoán giang mai được dùng nhiều hiện nay, bao gồm:
Xét nghiệm RPR (rapid plasma reagin card test) và VDRL (venereal disease research laboratory), giúp phát hiện kháng thể IgM và IgG kháng lipid không đặc hiệu, có thể cho kết quả dương tính giả trong 4 tuần.
Hãy thực hiện thêm xét nghiệm đặc hiệu nếu người bệnh được chẩn đoán dương tính giang mai.
Xét nghiệm đặc hiệu:
Bao gồm các xét nghiệm như TPHA (treponema pallidum hemagglutionation’s assay) TPPA (treponema pallidum particle agglutination assay) và FTA abs (fluorescent treponema antibody absortion’s test) để phát hiện kháng thể kháng lại kháng nguyên giang mai.
Xét nghiệm đặc hiệu thường được chỉ định khi xét nghiệm không đặc hiệu cho kết quả dương tính.
2. Phương pháp chẩn đoán trực tiếp
Các xét nghiệm tìm ra xoắn khuẩn gây bệnh giang mai, bao gồm:
Xét nghiệm soi tìm xoắn khuẩn trên kính hiển vi nền đen:
Là phương pháp đặc hiệu nhất hiện nay để chẩn đoán giang mai giai đoạn sớm.
Xét nghiệm tìm kháng thể huỳnh quang trực tiếp (DFA-direct fluorescent antibody):
Dùng kính hiển vi huỳnh quang để phát hiện xoắn khuẩn được nhuộm kháng thể globulin kháng T.pallidum có gắn lưu huỳnh, đây là xét nghiệm có tính ứng dụng cao.
Xét nghiệm khuếch đại axit nucleic (NAATs – nucleic acid amplification tests):
Trực tiếp tìm ra ADN của xoắn khuẩn gây bệnh giang mai bằng phản ứng khuếch đại axit nucleic.
Độ nhạy của phản ứng và mức độ chính xác của kết quả phụ thuộc vào mẫu sinh phẩm xét nghiệm PCR.
Ngoài ra, với sự phát triển của y học hiện nay, bác sĩ có thể chẩn đoán giang mai bằng các xét nghiệm nhanh, bao gồm 3 loại:
Đặc hiệu, không đặc hiệu và phối hợp.
Các xét nghiệm này không những xác định nhanh kết quả một người có dương tính với giang mai hay không, mà còn phát hiện nhiều bệnh truyền nhiễm khác như HIV.
Cần có đánh giá và kiểm định của Tổ chức Y tế Thế giới để có thể ứng dụng rộng rãi hơn trong chẩn đoán và điều trị giang mai.
Phương pháp điều trị giang mai ở nam giới
Phương pháp điều trị giang mai ở nam giới là điều trị bằng thuốc.
Bệnh giang mai rất dễ chữa khi được phát hiện và điều trị ở giai đoạn đầu.
Nguyên tắc trong điều trị giang mai là lựa chọn phác đồ điều trị theo giai đoạn bệnh và tình trạng bệnh hiện tại của người bệnh.
Phương pháp điều trị ưu tiên ở tất cả các giai đoạn là penicillin – một loại kháng sinh có thể tiêu diệt xoắn khuẩn Treponema pallidum gây bệnh giang mai.
Nếu bị dị ứng với penicillin, bác sĩ có thể cân nhắc lựa chọn 1 loại kháng sinh thay thế khác hoặc 1 phác đồ điều trị để cơ thể thích nghi với penicillin một cách an toàn theo thời gian.
Nếu mắc giang mai giai đoạn nguyên phát, thứ phát, có thể được điều trị 1 mũi penicillin duy nhất.
Nếu mắc bệnh lâu hơn một năm, cần dùng thêm liều.
Penicillin là phương pháp điều trị duy nhất được khuyên dùng cho phụ nữ mang thai.
Ngay cả khi thai phụ được điều trị giang mai, đứa trẻ sau khi được sinh ra vẫn phải xét nghiệm bệnh giang mai bẩm sinh.
Nếu bị nhiễm vi khuẩn, trẻ sẽ được điều trị bằng kháng sinh.
Ngày đầu tiên được điều trị, người bệnh có thể gặp phải hiện tượng gọi là phản ứng Jarisch-Herxheimer.
Các triệu chứng bao gồm: sốt, ớn lạnh, buồn nôn, đau nhức và nhức đầu.
Thông thường, phản ứng này không kéo dài quá một ngày.
Sau khi điều trị giang mai, bác sĩ có thể yêu cầu:
Làm xét nghiệm máu và kiểm tra thường xuyên để đảm bảo việc điều trị bằng penicillin có hiệu quả. Xét nghiệm máu sẽ cho thấy nhiễm trùng đã được chữa khỏi hay chưa.
Các xét nghiệm tiếp theo tùy thuộc vào giai đoạn bệnh giang mai mà người bệnh mắc phải, bác sĩ sẽ có hướng dẫn cụ thể.
Không quan hệ tình dục cho đến khi nhiễm trùng được chữa khỏi hoàn toàn và bác sĩ cho phép người bệnh trở lại hoạt động tình dục bình thường.
Báo cho bạn tình biết để họ được xét nghiệm và điều trị.
Xét nghiệm HIV.
Biện pháp phòng ngừa giang mai ở đàn ông
Sử dụng bao cao su và miếng chắn miệng đúng cách khi quan hệ tình dục.
Không quan hệ tình dục với bạn tình có triệu chứng nhiễm giang mai.
Xét nghiệm thường xuyên bệnh giang mai và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác, nếu có hoạt động tình dục không an toàn.
Chung thủy 1 vợ 1 chồng.
Quan hệ tình dục an toàn, chung thủy là phương án tốt nhất để phòng ngừa giang mai và các bệnh lây qua đường tình dục khác.
Bệnh giang mai ở nam giới hoàn toàn có thể chữa trị và phòng ngừa được.
Điều trị giang mai giai đoạn sớm mang lại kết quả điều trị tốt và hạn chế biến chứng.
TIP
Thời gian ủ bệnh giang mai kéo dài bao lâu?
Bệnh giang mai có thời gian ủ bệnh trung bình kéo dài trong khoảng 10 – 90 ngày, tính từ ngày phơi nhiễm, các dấu hiệu đầu tiên của nhiễm xoắn khuẩn Treponema pallidum có thể xuất hiện vào ngày thứ 21 trở đi.
Vì thể trạng của mỗi người bệnh khác nhau, cho nên thời gian ủ bệnh giang mai cũng có sự thay đổi, không nhất thiết phải kéo dài trong khoảng 10 – 90 ngày (tương đương khoảng 12 hoặc 13 tuần), trường hợp lâu hơn hoặc ngắn hơn vẫn có thể xảy ra.
Thời gian ủ bệnh là “thời điểm vàng” để điều trị giang mai nhanh chóng, hiệu quả, hạn chế tối đa biến chứng.
So với các nhiễm trùng tình dục khác, thời gian ủ bệnh giang mai khá dài, có thể chia ra thành 4 thời kỳ, tương đương với 4 giai đoạn tiến triển bệnh và là đáp án cụ thể cho câu hỏi “thời gian ủ bệnh giang mai kéo dài trong bao lâu?”:
1. Thời kỳ I (giai đoạn 1)
Thời gian ủ bệnh trong thời kỳ I tương ứng với giai đoạn 1 (sơ cấp) trong diễn biến bệnh giang mai, kéo dài trong khoảng 10 – 60 ngày, kể từ khi nhiễm khuẩn.
Lúc này, cơ thể người bệnh sẽ xuất hiện các triệu chứng giang mai đầu tiên là các vết săng.
Chúng có hình tròn hoặc bầu dục, chạm vào có cảm giác cứng và không đau, săng chủ yếu xuất hiện ở niêm mạc vùng sinh dục hoặc miệng, niêm mạc hậu môn,…
Chúng âm thầm xuất hiện và biến mất sau 3 – 6 tuần.
2. Thời kỳ II (giai đoạn 2)
Ở thời kỳ II, thời gian ủ bệnh giang mai kéo dài trong bao lâu? đáp án là kéo dài từ sau 4 – 8 tuần kể từ khi xuất hiện các triệu chứng giang mai sơ cấp.
Khi này, cơ thể xuất hiện các vết phát ban không đau nhưng có thể ngứa, tập trung chủ yếu ở lòng bàn tay, bàn chân.
Đi kèm với đó, người bệnh có những biểu hiện suy giảm hệ miễn dịch như: sốt, đau họng, đau cơ, mệt mỏi, sưng hạch bạch huyết,…
3. Thời kỳ tiềm ẩn (giang mai kín)
Thời kỳ tiềm ẩn (giang mai kín) khó xác định chính xác thời gian ủ bệnh.
Thời gian ủ bệnh giang mai kín được tính từ khi các triệu chứng của giang mai thời kỳ II biến mất.
Hầu như các trường hợp giang mai kín không biểu hiện triệu chứng trong thời kỳ tiềm ẩn.
Thông thường, thời kỳ tiềm ẩn chia làm 2 trường hợp:
Tiềm ẩn sớm, thời gian ủ bệnh dưới 1 năm.
Tiềm ẩn muộn, thời gian ủ bệnh trên 1 năm.
Hiểu thêm về giai đoạn phát triển bệnh giang mai
1. Thời kỳ I
Thời kỳ I là giai đoạn đầu tiên của nhiễm trùng, xảy ra trong vòng 10 – 90 ngày (trung bình 21 ngày) sau khi tiếp xúc với vi khuẩn Treponema pallidum.
Triệu chứng đặc trưng là vết loét không đau gọi là săng.
Vết loét xuất hiện ở nơi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể, thường ở bộ phận sinh dục, trực tràng hoặc miệng.
Hầu hết giang mai thời kỳ 1, người bệnh không xuất hiện nhiều hơn 1 săng.
Mặc dù săng không gây đau nhưng nó có khả năng lây nhiễm cao và có thể dễ dàng truyền vi khuẩn sang người khác thông qua tiếp xúc trực tiếp.
Săng thường tự lành ngay cả khi không điều trị.
Nhưng điều này không có nghĩa là nhiễm trùng đã biến mất. Nếu không được điều trị, bệnh sẽ tiến triển sang thời kỳ II – giai đoạn thứ cấp.
2. Thời kỳ II (giai đoạn thứ cấp)
Giang mai thời kỳ II do giang mai thời kỳ I không được điều trị tiến triển thành.
Sau vài tuần đến vài tháng, tính từ khi vết loét ban đầu lành lại, giang mai sẽ tiến triển sang thời kỳ II.
Không phải tất cả trường hợp nhiễm giang mai đều có triệu chứng đặc hiệu trong giai đoạn này, nhiều trường hợp xuất hiện các triệu chứng rất khác nhau.
Triệu chứng phổ biến nhất là phát ban trên da và không ngứa.
Phát ban do giang mai có thể xuất hiện ở bất cứ đâu trên cơ thể nhưng thường thấy ở lòng bàn tay hoặc bàn tay, lòng bàn chân.
Phát ban có thể có nhiều dạng như:
Xuất hiện đốm thô ráp, đỏ hoặc nâu đỏ, hoặc có triệu chứng giống với các tình trạng dị ứng da khác.
Tổn thương màng nhầy có thể xuất hiện dưới dạng vết loét ở miệng, cổ họng hoặc vùng sinh dục.
Đi kèm với: sốt, sưng hạch bạch huyết, đau họng, rụng tóc từng mảng, nhức đầu, đau cơ, mệt mỏi ở những vùng ấm, ẩm như háng hoặc nách.
Giai đoạn 2 là giai đoạn dễ lây bệnh nhất.
Tương tự như thời kỳ I, các triệu chứng thường khỏi trong vòng vài tuần đến vài tháng, ngay cả khi không điều trị.
3. Thời kỳ tiềm ẩn (giang mai kín)
Trong thời kỳ tiềm ẩn, vi khuẩn gây bệnh vẫn tồn tại trong cơ thể mà không gây ra triệu chứng.
Thời gian ủ bệnh giang mai tiềm ẩn được tính từ khi phát ban ở thời kỳ II biến mất.
Nhưng giai đoạn tiềm ẩn cũng có thể xảy ra giữa thời kỳ I và II, kéo dài trong nhiều năm và âm thầm tiến triển sang thời kỳ III, gây những biến chứng nguy hiểm.
4. Thời kỳ III
Giang mai thời kỳ 3 đã qua thời gian ủ bệnh, tiến triển đến các biến chứng nguy hiểm, gây khó khăn trong điều trị.
Các biến chứng của giang mai thời kỳ III có thể xuất hiện sau 10 – 30 năm nhiễm bệnh, nếu không điều trị kịp thời có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh, tai, mắt, viêm màng não, nhiễm trùng, tê liệt một số bộ phận,…
Biến chứng nguy hiểm nhất chính là giang mai thần kinh, đe dọa trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng.
Cách nhận biết giang mai sau giai đoạn ủ bệnh
Sau khi xác định được thời gian ủ bệnh giang mai kéo dài trong bao lâu cụ thể qua từng thời kỳ.
Người bệnh cần biết cách nhận biết giang mai sau giai đoạn ủ bệnh.
Cách nhận biết giang mai sau thời gian ủ bệnh chính là dựa trên các triệu chứng đặc trưng của bệnh qua từng giai đoạn.
Săng thương không đau là dấu hiệu đặc trưng để nhận biết giang mai thời kỳ I.
Ở giai đoạn này, thường xuất hiện 1 săng thương duy nhất, có màu đỏ, cứng, hình tròn, không gây đau và chứa rất nhiều vi khuẩn.
Săng thương thường xuất hiện ở những khu vực nhiễm xoắn khuẩn giang mai như: bộ phận sinh dục, hậu môn, trực tràng, cổ tử cung, đáy chậu.
Nếu quan hệ bằng miệng, săn thương có thể xuất hiện ở môi, niêm mạc miệng hoặc quanh miệng.
Nên làm gì khi phát hiện bản thân mắc bệnh giang mai?
Khi phát hiện bản thân mắc bệnh giang mai hoặc nghi nhiễm, người bệnh tốt nhất nên đến ngay cơ sở y tế để được chẩn đoán và can thiệp điều trị sớm nhất có thể, tránh bệnh tiến triển đến giai đoạn muộn, gây những biến chứng nghiêm trọng.
Sau khi các bác sĩ tiến hành xét nghiệm sàng lọc bệnh và có kết luận cuối cùng về kết quả dương tính (mắc bệnh) giang mai, xác định giai đoạn nhiễm trùng, sẽ tiến hành điều trị bằng kháng sinh, chủ yếu là penicillin.
Loại thuốc cụ thể, liều dùng và thời gian điều trị sẽ phụ thuộc vào giai đoạn nhiễm trùng và thể trạng người bệnh.
Cần thông báo cho bạn tình biết nếu bản thân bị nhiễm giang mai để họ chủ động xét nghiệm và điều trị. Điều này giúp ngăn ngừa sự lây nhiễm và bảo vệ sức khỏe của họ.
Trong quá trình chữa trị cần kiêng các hoạt động tình dục cho đến khi bản thân và bạn tình đã hoàn thành việc điều trị và bác sĩ cho phép.
Ngay cả khi đã được điều trị khỏi giang mai, người bệnh cũng cần thường xuyên làm xét nghiệm theo dõi để đảm bảo nhiễm trùng đã được chữa khỏi hoàn toàn.
Xét nghiệm định kỳ nếu vẫn có các hoạt động tình dục để phát hiện sớm nếu bệnh tái phát.
Thai phụ mắc giang mai không được điều trị có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho thai nhi và lây bệnh cho trẻ sau khi sinh.
Bệnh giang mai là bệnh nhiễm trùng có thể điều trị được và can thiệp sớm có thể giúp bệnh được chữa khỏi hoàn toàn, tránh những biến chứng tiềm ẩn và nguy hiểm.
Phương pháp điều trị giang mai hiệu quả hiện nay
Phương pháp điều trị bệnh giang mai hiệu quả nhất, bất kể giai đoạn nào, là điều trị bằng kháng sinh penicillin.
Đây là phương pháp điều trị duy nhất được Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) khuyến nghị cho những người mang thai mắc bệnh giang mai.
Dựa trên từng tình trạng và mức độ nhiễm khuẩn giang mai của từng trường hợp, sau khi có kết quả xét nghiệm và chẩn đoán, bác sĩ sẽ có phương án điều trị và sử dụng liều penicillin phù hợp.
Mỗi trường hợp bệnh và giai đoạn khác nhau, phác đồ điều trị có thể khác nhau.
Sau 24 giờ kể từ khi bắt đầu điều trị giang mai, cơ thể sẽ có những phản ứng đầu tiên với thuốc, bao gồm: sốt, ớn lạnh, nhức đầu và đau cơ.
Các triệu chứng có thể gây khó chịu nhưng thường không nguy hiểm và tự khỏi.
Trong suốt quá trình điều trị, người bệnh cần được xét nghiệm thường xuyên để theo dõi diễn biến của bệnh cũng như mức độ hiệu quả của phác đồ điều trị.
Người bệnh cần tuân thủ nghiêm ngặt các chỉ định từ bác sĩ để giúp quá trình điều trị diễn ra thuận lợi, đạt hiệu quả cao.
Biện pháp phòng ngừa bệnh giang mai
Sử dụng bao cao su và màng bảo vệ khi quan hệ.
Trong các hoạt động tình dục, tránh tiếp xúc tình dục với bạn tình có triệu chứng nhiễm bệnh giang mai.
Tránh tiếp xúc với săng thương, dịch tiết từ săng thương của người bệnh.
HƯỚNG DẪN CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH GIANG MAI
I. ĐẠI CƯƠNG
Bệnh giang mai là bệnh lây truyền từ người sang người qua đường tình dục do xoắn khuẩn giang mai (Treponema pallidum) gây nên.
Bệnh có thể gây tổn thương ở da, niêm mạc, nếu không được điều trị có thể gây tổn thương các tổ chức và cơ quan khác của cơ thể như cơ, xương, khớp, tim mạch và thần kinh.
Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), trong năm 2020, thế giới có khoảng 7,1 triệu trường hợp giang mai mới mắc.
Số ca mắc mới ở khu vực Tây Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam, chiếm 1,1 triệu ca.
Xoắn khuẩn giang mai rất yếu, ở ngoài cơ thể chỉ sống được vài giờ.
Nhiệt độ thích hợp cho xoắn khuẩn phát triển là 37 độ C.
Xà phòng và các chất sát khuẩn có thể diệt được xoắn khuẩn trong vài phút.
Xoắn khuẩn xâm nhập vào cơ thể người lành qua quan hệ tình dục đường âm đạo, đường hậu môn hoặc đường miệng.
Bệnh cũng có thể lây gián tiếp qua các đồ dùng, vật dụng bị nhiễm xoắn khuẩn hoặc lây qua các vết xước trên da, niêm mạc.
Ngoài ra, bệnh có thể lây truyền qua đường máu hoặc từ mẹ bị giang mai sang con trong thời kỳ mang thai.
II. CHẨN ĐOÁN
2.1. Các giai đoạn của giang mai
Bệnh giang mai nếu không được chẩn đoán và điều trị có thể tồn tại rất nhiều năm và được chia làm 2 giai đoạn: giang mai sớm và giang mai muộn.
- Giang mai sớm, gồm:
+ Giang mai thời kỳ I (primary syphilis)
+ Giang mai thời kỳ II (secondary syphilis)
+ Giang mai kín sớm: giang mai kín (không có biểu hiện lâm sàng) và thời gian mắc £ 2 năm.
- Giang mai muộn, gồm:
+ Giang mai kín muộn: giang mai kín (không có biểu hiện lâm sàng) và thời gian mắc > 2 năm
+ Giang mai thời kỳ III (có tổn thương ăn sâu vào tổ chức da, niêm mạc, tim mạch, thần kinh).
2.2. Triệu chứng lâm sàng
2.2.1. Giang mai mắc phải
a) Giang mai thời kỳ I
- Biểu hiện lâm sàng đặc trưng: săng đơn độc, xuất hiện tại nơi xoắn khuẩn xâm nhập vào cơ thể, thường ở âm đạo, dương vật, hậu môn (hoặc có thể ở những vị trí ngoài sinh dục).
Săng thường xuất hiện khoảng 3 tuần sau lây nhiễm (khoảng 9-90 ngày), có thể hết trong vòng 3-10 tuần dù điều trị hay không.
Người bệnh có thể không để ý khi thấy xuất hiện săng hoặc thấy săng tự mất.
- Nếu không được chẩn đoán và điều trị trong thời kỳ này, sau 4-8 tuần từ khi xuất hiện tổn thương ban đầu, bệnh sẽ tiến triển sang giang mai thời kỳ II.
b) Giang mai thời kỳ II
- Biểu hiện lâm sàng đặc trưng: tổn thương da và niêm mạc, lan rộng.
+ Đào ban có hình thái đa dạng, có thể giống với tổn thương ban/dát đỏ ở các bệnh lý khác.
Nhưng tổn thương trong giang mai đặc trưng ở vị trí lòng bàn tay, bàn chân, tổn thương đối xứng hai bên và không ngứa.
Tổn thương cũng có thể rất kín đáo, dễ bị bỏ qua trên lâm sàng.
+ Mảng niêm mạc:
Các vết trợt màu trắng, hay gặp ở niêm mạc miệng, lưỡi, sinh dục.
+ Sẩn giang mai:
Màu đỏ hồng, hình bán cầu, xung quanh có viền vảy (viền vảy Biett), có thể xuất hiện ở các vùng da khác nhau, đa dạng về hình thái (sẩn dạng vảy nến, sẩn dạng trứng cá, sẩn dạng thuỷ đậu, sẩn loét).
Sẩn sùi giang mai (condylomata lata) thường xuất hiện ở các vị trí nóng, ẩm như hậu môn, âm hộ.
Đây là các tổn thương trợt nông màu trắng/xám, nổi gồ cao, là kết quả của sự lây lan xoắn khuẩn
giang mai từ tổn thương tiên phát.
+ Có thể đi kèm các triệu chứng không đặc hiệu khác như mệt, sốt, nổi hạch vùng, rụng tóc, đau đầu.
- Triệu chứng của giang mai thời kỳ II có thể tự mất đi dù không điều trị gì.
Tuy nhiên, nếu bệnh nhân không được điều trị, bệnh sẽ tiến triển sang giang mai kín.
Người bệnh trong thời kỳ giang mai II có nguy cơ cao lây nhiễm cho người khác.
c) Giang mai kín (giang mai tiềm ẩn)
- Không có dấu hiệu, triệu chứng lâm sàng.
Vì thế, chỉ có thể phát hiện bằng xét nghiệm huyết thanh.
- Được chia làm 2 giai đoạn:
Giang mai kín sớm (thời gian mắc £ 2 năm) và giang mai kín muộn (thời gian mắc > 2 năm). Những bệnh nhân không biết chắc chắn thời gian nhiễm bệnh nên được điều trị theo phác đồ giang mai kín muộn.
Giang mai lây truyền qua đường tình dục thường chỉ xảy ra ở giang mai thời kỳ I, thời kỳ II và giang mai kín sớm.
Tuy nhiên, lây truyền từ mẹ sang con thì có thể xảy ra sau nhiều năm kể từ thời điểm nhiễm khuẩn ban đầu.
- Nếu không được chẩn đoán và điều trị, hầu hết bệnh nhân vẫn ở giai đoạn giang mai kín.
Khoảng 25% bệnh nhân sẽ tiến triển thành giang mai thời kỳ III.
d) Giang mai thời kỳ III
- Bệnh ảnh hưởng đến bất kỳ cơ quan nào trong cơ thể, có thể xảy ra sau thời điểm nhiễm khuẩn ban đầu thậm chí ³ 30 năm.
- Biểu hiện lâm sàng đặc trưng: biểu hiện thần kinh (giang mai thần kinh), biểu hiện tim mạch (giang mai tim mạch) và các tổn thương gôm giang mai.
+ Giang mai thần kinh có thể xuất hiện ở bất kỳ giai đoạn nào của bệnh, thậm chí trong vài tháng đầu.
Các triệu chứng thần kinh sớm bao gồm:
Thay đổi trạng thái tâm thần cấp tính, viêm màng não, đột quỵ, rối loạn chức năng dây thần kinh sọ, bất thường về thính giác, mắt và thị giác.
Giang mai thần kinh muộn có thể xảy ra 10-30 năm hoặc lâu hơn kể từ thời điểm mắc bệnh và đặc trưng bởi tổn thương các rễ thần kinh sau của cột sống và liệt nhẹ toàn thể.
+ Giang mai tim mạch thường biểu hiện:
Viêm động mạch chủ, phình động mạch chủ, hở van động mạch chủ, hẹp động mạch vành, một số trường hợp có thể có viêm cơ tim.
+ Gôm giang mai:
Là thương tổn đặc trưng của giang mai thời kỳ III.
Gôm là thương tổn chắc ở hạ bì, tiến triển qua 4 giai đoạn:
Ban đầu là những cục dưới da, các cục này dần to ra, mềm, vỡ chảy dịch dính giống như nhựa cao su tạo thành vết loét; vết loét dần lên da non rồi thành sẹo.
Gôm có thể nhiều hoặc ít và có thể khu trú ở bất kỳ chỗ nào.
Vị trí thường gặp là mặt, da đầu, mông, đùi, mặt ngoài phần trên cẳng chân…
Ở niêm mạc, vị trí thường gặp là miệng, môi, vòm miệng, lưỡi, mũi, hầu…, ngoài ra có thể có gôm trong não.
2.2.2. Giang mai bẩm sinh
- Giang mai bẩm sinh được xác định khi:
+ Sảy thai, thai chết lưu hoặc trẻ được sinh ra từ tuần thứ 20 của thai kỳ trở đi hoặc cân nặng trên 500gam (tương đương tuổi thai 20 tuần trở lên), có mẹ xét nghiệm huyết thanh giang mai dương tính và không được điều trị đúng, đủ;
+ Trẻ sinh ra dưới 2 tuổi, có triệu chứng lâm sàng của giang mai bẩm sinh hoặc có xét nghiệm giang mai dương tính (xem phần chẩn đoán giang mai bẩm sinh).
- Biểu hiện thường gặp nhất của giang mai bẩm sinh là thai lưu hoặc đẻ non ở 3 tháng giữa hoặc 3 tháng cuối của thai kỳ.
Vì vậy, tất cả các bà mẹ bị thai lưu cần làm xét nghiệm huyết thanh giang mai.
Ở hầu hết các quốc gia, đa số giang mai bẩm sinh gây hậu quả thai chết lưu và những trường hợp này thường bỏ sót nguyên nhân thai chết lưu do giang mai.
- Trẻ em được sinh ra từ những bà mẹ có xét nghiệm huyết thanh giang mai dương tính cần được khám, phát hiện những dấu hiệu, triệu chứng của giang mai bẩm sinh sớm bao gồm:
Bọng nước, viêm mũi, viêm thanh quản, hạch, gan lách to, viêm xương sụn, viêm màng bụng, viêm màng não, viêm màng mạch-võng mạc.
- Biểu hiện của giang mai bẩm sinh muộn ở trẻ > 2 tuổi bao gồm:
Viêm mắt, tai, khớp, dị dạng xương và các di chứng do các thương tổn của giang mai bẩm sinh sớm.
- Tuy nhiên, rất nhiều trẻ sơ sinh bị giang mai mà không có các dấu hiệu, triệu chứng rõ ràng, điển hình.
2.3. Cận lâm sàng
2.3.1. Phƣơng pháp gián tiếp: xét nghiệm huyết thanh giang mai
- Có 2 loại xét nghiệm phản ứng huyết thanh chẩn đoán giang mai:
Xét nghiệm không đặc hiệu và đặc hiệu.
- Bệnh phẩm chủ yếu là huyết thanh.
Một số xét nghiệm không đặc hiệu có thể dùng bệnh phẩm là huyết tương.
Ngoài ra, bệnh phẩm dịch não tủy được dùng để chẩn đoán giang mai bẩm sinh, giang mai III và khi có triệu chứng thần kinh.
a) Xét nghiệm không đặc hiệu
- Các xét nghiệm không đặc hiệu phổ biến và hay được sử dụng nhất là RPR (rapid plasma reagin card test) và VDRL (venereal disease research laboratory).
- Các xét nghiệm này phát hiện kháng thể IgM hoặc IgG kháng lipid không đặc hiệu.
Những kháng thể này cũng có thể được phát hiện ở một số bệnh khác như sốt vi rút, một số bệnh tự miễn, vì vậy có thể cho kết quả dương tính giả và không đặc hiệu cho bệnh giang mai.
- Có thể có kết quả âm tính giả trong vòng 4 tuần đầu sau khi xuất hiện tổn thương sơ phát và trong giang mai muộn.
- Trong giang mai thời kỳ I và II, phản ứng không đặc hiệu có thể âm tính giả do hiện tượng trước vùng phát hiện (phản ứng prozone: do nồng độ kháng thể trong bệnh phẩm rất cao, ngăn cản sự hình thành mạng lưới kháng nguyên - kháng thể).
Bệnh nhân có tổn thương nghi ngờ giang mai thời kỳ I, cần làm xét nghiệm lại sau 2-4 tuần
để khẳng định chẩn đoán.
Xét nghiệm không đặc hiệu âm tính ở thời điểm 3 tháng sau khi xuất hiện tổn thương săng có thể loại trừ bệnh giang mai.
- Các trường hợp dương tính giả thường có hiệu giá kháng thể < 1/4.
- Xét nghiệm không đặc hiệu định tính được sử dụng phối hợp với xét nghiệm đặc hiệu để chẩn đoán giang mai.
- Xét nghiệm không đặc hiệu định lượng được sử dụng để theo dõi hiệu quả điều trị dựa vào sự thay đổi của hiệu giá kháng thể.
Nếu điều trị hiệu quả, hiệu giá kháng thể sẽ giảm.
Nếu bệnh không đáp ứng tốt với điều trị, hiệu giá kháng thể sẽ tăng.
- Hiệu giá kháng thể thay đổi (tăng/giảm) ≥ 4 lần, tương đương ≥ 2 lần pha loãng huyết thanh giữa 2 lần xét nghiệm liên tiếp nhau thì được xem là thay đổi có ý nghĩa (cùng một phương pháp (RPR hoặc VDRL) và cùng một phòng xét nghiệm) (ví dụ: từ 1/16 giảm xuống 1/4 ở bệnh nhân có đáp ứng với điều trị, hoặc từ 1/8 tăng lên 1/32 đối với trường hợp không đáp ứng tốt với điều trị).
- Nếu hiệu giá kháng thể chỉ thay đổi ≤ 2 lần, tương đương 1 lần pha loãng (ví dụ: 1/8 và 1/4, 1/2 và 1/1) thì được xem không có ý nghĩa.
b) Xét nghiệm đặc hiệu
- Bao gồm TPHA (treponema pallidum hemagglutionation’s assay), TPPA (treponema pallidum particle agglutination assay) và FTA abs (fluorescent treponema antibody absortion’s test).
- Phát hiện kháng thể kháng lại kháng nguyên giang mai đặc hiệu nên có tính đặc hiệu cao.
Tuy nhiên, xét nghiệm này không phân biệt được kháng nguyên trong bệnh giang mai và các bệnh do xoắn khuẩn khác gây nên (ví dụ: bệnh ghẻ cóc).
- Sau khi điều trị đúng, xét nghiệm đặc hiệu vẫn dương tính kéo dài suốt đời (85%), vì vậy xét nghiệm đặc hiệu không phân biệt được bệnh đang trong thời kỳ hoạt động hay đã được điều trị và không dùng để theo dõi sau điều trị.
- Xét nghiệm đặc hiệu được chỉ định sau khi có kết quả dương tính với xét nghiệm không đặc hiệu để chẩn đoán khẳng định hoặc ngược lại.
2.3.2. Phương pháp trực tiếp
a) Xét nghiệm soi tìm xoắn khuẩn trên kính hiển vi nền đen
- Bệnh phẩm: dịch tiết từ tổn thương nghi ngờ trên da, niêm mạc, hạch…
- Soi tìm xoắn khuẩn trên kính hiển vi nền đen thấy xoắn khuẩn giang mai dưới dạng lò xo, di động.
- Đây là phương pháp đặc hiệu nhất để chẩn đoán giang mai ở giai đoạn sớm.
Xét nghiệm có độ đặc hiệu cao, nhưng độ nhạy thấp (thường < 50%), nên xét nghiệm soi tìm xoắn khuẩn âm tính không loại trừ được giang mai.
- Xét nghiệm cần được thực hiện ngay sau khi lấy bệnh phẩm.
- Xét nghiệm cần các thiết bị đặc biệt và kỹ thuật viên đã được tập huấn, có kinh nghiệm, vì vậy thường chỉ có thể tiến hành trong các phòng xét nghiệm chuyên sâu.
Đây là một trong những phương pháp có độ tin cậy cao nhất để trực tiếp phát hiện T.pallidum, nhưng tính ứng dụng không cao.
b) Xét nghiệm tìm kháng thể huỳnh quang trực tiếp (DFA-direct fluorescent antibody)
- Dùng kính hiển vi huỳnh quang để phát hiện xoắn khuẩn được nhuộm kháng thể globulin kháng T. pallidum có gắn huỳnh quang.
- Bệnh phẩm được lấy như xét nghiệm soi tìm xoắn khuẩn trên kính hiển vi nền đen nhưng xoắn khuẩn được nhuộm kháng thể gắn huỳnh quang nên dễ được phát hiện hơn, không bị nhầm lẫn với các vi sinh vật khác, nên xét nghiệm DFA có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn.
- Xét nghiệm cần các thiết bị và chế phẩm huỳnh quang đặc biệt, vì vậy tính ứng dụng không cao.
c) Xét nghiệm khuếch đại axit nucleic (NAATs – nucleic acid amplification tests)
- Xét nghiệm trực tiếp tìm ADN xoắn khuẩn T. pallidum bằng phản ứng khuếch đại axit nucleic (còn gọi là xét nghiệm khuếch đại gen, trong đó có xét nghiệm PCR).
- Bệnh phẩm: dịch tiết từ tổn thương da, mô, dịch cơ thể.
- Độ nhạy khác nhau, phụ thuộc vào bộ sinh phẩm PCR.
- Giá thành cao hơn so với các xét nghiệm chẩn đoán giang mai khác; cần có các thiết bị xét nghiệm chuyên dụng và cán bộ xét nghiệm được đào tạo để thực hiện xét nghiệm PCR.
2.3.3. Xét nghiệm nhanh chẩn đoán giang mai
- Các xét nghiệm nhanh chẩn đoán giang mai (rapid diagnostic tests) đã và đang được phát triển mạnh trong vài thập kỷ qua.
- Hiện nay, xét nghiệm nhanh chẩn đoán giang mai được sử dụng rộng rãi để sang lọc trong cộng đồng, đặc biệt cho các nhóm đối tượng nguy cơ cao (phụ nữ mại dâm, nam quan hệ tình dục đồng giới) và trong chương trình phòng chống HIV/AIDS.
- Các xét nghiệm nhanh có thể được thực hiện tại các cơ sở y tế hoặc tại cộng đồng.
Xét nghiệm tại cộng đồng được thực hiện bởi các nhân viên tiếp cận cộng đồng đã được tập huấn đầy đủ.
- Xét nghiệm nhanh cho kết quả xác định kháng thể kháng giang mai trong 10-15 phút và không cần tủ lạnh bảo quản bệnh phẩm hay dụng cụ xét nghiệm nên có thể tiến hành được ở nhiều tuyến khác nhau.
- Xét nghiệm nhanh có độ nhạy từ 85-98% và độ đặc hiệu từ 93-98% (lấy xét nghiệm đặc hiệu TPHA hoặc TPPA làm chuẩn).
- Nhìn chung, xét nghiệm nhanh có độ nhạy cao có xu hướng có độ đặc hiệu thấp hơn và ngược lại.
- Có 3 loại xét nghiệm nhanh chẩn đoán giang mai: đặc hiệu, không đặc hiệu và phối hợp.
a) Xét nghiệm đặc hiệu
- Hầu hết các xét nghiệm nhanh sử dụng kháng nguyên T. pallidum để phát hiện kháng thể đặc hiệu giang mai.
Nguyên lý của xét nghiệm nhanh chẩn đoán giang mai giống với xét nghiệm huyết thanh đặc hiệu, nên kết quả xét nghiệm nhanh dương tính không phân biệt được bệnh giang mai đang hoạt động hay trước đây đã được điều trị.
- Xét nghiệm nhanh kép HIV/giang mai phát hiện kháng thể kháng HIV và kháng thể đặc hiệu giang mai trong một lần xét nghiệm đã được nghiên cứu và sử dụng tại cơ sở y tế và tại cộng đồng.
Sau khi có kết quả dương tính cần làm thêm xét nghiệm không đặc hiệu để chẩn đoán xác định.
Hiện nay, xét nghiệm nhanh kép này đang được sử dụng cho các quần thể nguy cơ cao (phụ nữ mại dâm, nam quan hệ tình dục đồng giới, người chuyển giới) và phụ nữ mang thai.
Việc sử dụng xét nghiệm nhanh kép HIV/giang mai đã làm tăng sự tiếp cận với xét nghiệm cũng như có chi phí-hiệu quả cao.
b) Xét nghiệm không đặc hiệu
Gần đây, các xét nghiệm nhanh phát hiện kháng thể kháng kháng nguyên cardiolipin, có nguyên lý hoạt động giống xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu đang được nghiên cứu và ứng dụng.
c) Xét nghiệm nhanh phối hợp đặc hiệu và không đặc hiệu
Các xét nghiệm nhanh không đặc hiệu được kết hợp với xét nghiệm đặc hiệu giang mai, nên có thể vừa sàng lọc (tương đương RPR/VDRL) vừa khẳng định chẩn đoán (tương đương TPHA/TPPA).
Tuy nhiên, những xét nghiệm kép này chưa được đánh giá và kiểm định bởi Tổ chức Y tế thế giới.
2.4. Chẩn đoán xác định
2.4.1. Giang mai mắc phải
- Người bệnh được chẩn đoán xác định giang mai khi có kết quả dương tính với 01 xét nghiệm huyết thanh đặc hiệu (bao gồm cả xét nghiệm nhanh) và 01 xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu.
Việc lựa chọn và phối hợp xét nghiệm đặc hiệu và không đặc hiệu phụ thuộc vào sự sẵn có của các xét nghiệm này tại mỗi cơ sở y tế.
- Ngoài ra có thể dựa vào các xét nghiệm trực tiếp như kính hiển vi nền đen, xét nghiệm kháng thể huỳnh quang trực tiếp và xét nghiệm khuếch đại gen.
2.4.2. Giang mai bẩm sinh
- Tất cả trẻ sinh ra từ những bà mẹ có kết quả huyết thanh giang mai dương tính, cần được khám và làm xét nghiệm để tìm bằng chứng giang mai bẩm sinh.
Đối với trẻ sinh ra từ mẹ bị giang mai nhưng không được điều trị đầy đủ ít nhất 30 ngày trước khi sinh hoặc không được điều trị, cần được xét nghiệm ngay ở thời điểm mới sinh ra và hàng tháng trong vòng 3-4 tháng cho đến khi khẳng định về mặt huyết thanh là âm tính.
Một số trường hợp kháng thể thụ động từ mẹ có thể tồn tại tới 18 tháng.
Vì vậy, nếu xét nghiệm huyết thanh của trẻ vẫn dương tính và hiệu giá kháng thể tăng ≥ 4 lần
hiệu giá kháng thể của mẹ thì trẻ cần được điều trị giang mai bẩm sinh.
- Trẻ sinh ra dưới 2 tuổi có mẹ bị giang mai được chẩn đoán giang mai bẩm sinh khi có triệu chứng lâm sàng của giang mai bẩm sinh hoặc có xét nghiệm giang mai dương tính, bao gồm một trong những xét nghiệm sau:
+ Xét nghiệm tìm xoắn khuẩn trên kính hiển vi nền đen hoặc xét nghiệm kháng thể huỳnh quang trực tiếp: thấy sự có mặt của T. pallidum.
Bệnh phẩm lấy từ dây rốn, nhau thai, dịch tiết từ mũi hoặc tổn thương da.
+ Xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu dương tính và có hiệu giá kháng thể cao gấp ³ 4 lần hiệu giá kháng thể của mẹ.
- Trong một số trường hợp giang mai bẩm sinh, có thể phối hợp X-quang để xác định chẩn đoán.
2.5. Chẩn đoán phân biệt
Tuỳ thuộc vào biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân.
- Chẩn đoán phân biệt săng/loét giang mai:
+ Loét ở sinh dục:
Nhiễm herpes simplex sinh dục, hạ cam, loét áp sinh dục, chấn thương, ung thư.
+ Loét ở hậu môn:
Nhiễm herpes simplex hậu môn-sinh dục, nứt kẽ hậu môn, chấn thương, nhiễm khuẩn khác.
+ Loét ở miệng:
Herpes simplex miệng, loét áp, chấn thương.
- Chẩn đoán phân biệt đào ban giang mai: dị ứng thuốc, vảy phấn hồng, vảy nến, chàm/viêm da cơ địa.
- Chẩn đoán phân biệt sẩn sùi giang mai (condylomata lata): sùi mào gà và các bệnh lý hạt cơm khác.
III. ĐIỀU TRỊ
3.1. Nguyên tắc điều trị
- Lựa chọn phác đồ điều trị dựa vào giai đoạn bệnh: giang mai sớm (≤ 2 năm) hay giang mai muộn (> 2 năm hoặc không xác định thời gian).
Bạn tình hiện tại và trong vòng 1 năm cần được đi khám, làm xét nghiệm giang mai và điều trị nếu mắc bệnh.
- Chủ yếu điều trị ngoại trú, chỉ điều trị nội trú trong trường hợp giang mai thời kỳ III (có biểu hiện tim mạch và thần kinh) và giang mai bẩm sinh.
3.2. Điều trị cụ thể
3.2.1. Đối với bệnh nhân người lớn và vị thành niên
Bệnh giang mai ở nam là bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI) do xoắn khuẩn giang mai Treponema pallidum gây ra.
Nếu không được điều trị, giang mai gây ra các vấn đề sức khỏe như: tổn thương da, hệ cơ xương khớp, tim mạch và thần kinh.
Xoắn khuẩn gây bệnh giang mai Treponema pallidum phát triển mạnh ở nhiệt độ 37 độ C nhưng chết trong vài giờ nếu ở môi trường bên ngoài cơ thể người, xà phòng có thể tiêu diệt xoắn khuẩn trong vài phút.
Bệnh giang mai lây do quan hệ tình dục không an toàn (có thể bằng miệng, âm đạo và hậu môn), thậm chí bệnh lây nhiễm từ mẹ sang con hay qua truyền máu.
Nhiều người mắc bệnh giang mai không có triệu chứng.
Ở phụ nữ đang mang thai, nếu điều trị không kịp thời, không đúng phác đồ thì có đến 50% – 80% trường hợp thai chết lưu, trẻ sơ sinh tử vong và trẻ sinh ra mắc bệnh giang mai bẩm sinh.
Dấu hiệu giang mai ở nam giới
Trong một vài trường hợp không nhận thấy bất kỳ dấu hiệu giang mai nào ở nam giới.
Nếu không được điều trị, bệnh giang mai sẽ kéo dài nhiều năm.
Bệnh giang mai có nhiều giai đoạn, các giai đoạn có những dấu hiệu khác nhau.
Có 2 loại giang mai là giang mai mắc phải và giang mai bẩm sinh với các triệu chứng như sau:
1. Giang mai mắc phải
1.1 Giai đoạn sơ cấp (Thời kỳ I)
Giai đoạn sơ cấp hay giai đoạn 1, được y học gọi là giang mai thời kỳ 1, thường xuất hiện triệu chứng trong khoảng 3 tuần (khoảng 9 – 90 ngày) tính từ khi phơi nhiễm.
Trong thời gian này, các vết loét cứng (săng), không đau, bắt đầu xuất hiện ở bộ phận sinh dục, hậu môn.
Các săng do giang mai không gây đau hay khó chịu và tự lành trong 3 – 10 tuần.
Vài trường hợp, người bệnh không có hoặc không phát hiện bất kỳ triệu chứng nào.
Nếu không được điều trị, giang mai ở nam giới dễ tiến triển sang giai đoạn thứ cấp (thời kỳ II).
1.2 Giai đoạn thứ cấp (Thời kỳ II)
Giai đoạn thứ cấp, y học gọi là giang mai thời kỳ 2, bệnh có dấu hiệu phát ban không ngứa, các nốt ban đỏ thường xuất hiện ở lòng bàn tay, lòng bàn chân.
Phát ban do giang mai có nhiều hình dạng khác nhau.
Các vết săng thương có dạng như các vết trợt màu trắng hoặc xám, xuất hiện ở những vùng ấm và ẩm như trong bao quy đầu, hậu môn, niêm mạc lưỡi, miệng,… tự biến mất sau thời gian.
Các sẩn giang mai có thể xuất hiện trong giai đoạn này.
Chúng có hình bán cầu, xung quanh có các viền như vảy.
Sẩn giang mai xuất hiện ở các vùng da khác nhau, đa dạng về hình thái như:
Sẩn vảy nến, sẩn dạng thủy đậu, sẩn dạng trứng cá, sẩn loét trên da,…
Ở vị trí hậu môn, dương vật, có thể xuất hiện sẩn sùi giang mai (condylomata lata), đặc trưng với các vết trợt nông, nổi cộm lên và có màu trắng hoặc xám do lây nhiễm giang mai từ các tổn thương nguyên phát.
Giang mai thời kỳ II có thể xuất hiện kèm các triệu chứng không đặc hiệu như sốt cao, mệt mỏi, đau đầu, rụng tóc, nổi hạch.
Tương tự như thời kỳ I, các triệu chứng giang mai thời kỳ II có thể biến mất kể cả khi không điều trị và âm thầm tiến triển sang giang mai tiềm ẩn.
Tỷ lệ lây lan giang mai giai đoạn 2 cao.
1.3 Giai đoạn tiềm ẩn (Giang mai kín)
Giai đoạn tiềm ẩn còn được gọi là giang mai kín.
Ở giai đoạn này, bệnh gần như không có bất kỳ dấu hiệu nào.
Người bệnh chỉ có thể phát hiện bệnh khi làm xét nghiệm huyết thanh.
Giang mai kín được chia làm 2 giai đoạn:
Giang mai kín sớm: thời gian mắc bệnh kéo dài dưới 2 năm.
Giang mai kín muộn: thời gian mắc bệnh kéo dài trên 2 năm.
Trong trường hợp không xác định chính xác thời gian mắc bệnh, tất cả trường hợp giang mai kín được điều trị theo phác đồ giang mai kín giai đoạn muộn.
Giang mai mắc phải lây truyền qua đường tình dục chủ yếu lây trong thời kỳ I, II và giang mai kín giai đoạn sớm.
Ước tính, có khoảng 25% giang mai kín không được điều trị sẽ chuyển sang giang mai giai đoạn cuối (thời kỳ III).
1.4 Giai đoạn cuối (Giang mai thời kỳ III)
Giang mai giai đoạn cuối được gọi là giang mai thời kỳ III, ảnh hưởng đến bất kỳ cơ quan nào trong cơ thể.
Giang mai thời kỳ III có thể xảy ra sau 30 năm kể từ khi nhiễm khuẩn, khiến nhiều người chủ quan.
Dấu hiệu lâm sàng của giang mai thời kỳ III chính là các biểu hiện của giang mai thần kinh, giang mai tim mạch và các tổn thương gôm giang mai, bao gồm:
Giang mai thần kinh:
Thay đổi trạng thái tâm thần cấp tính;
Viêm màng não;
Đột quỵ;
Rối loạn chức năng dây thần kinh sọ;
Bất thường về thính giác và thị lực,…
Do vi khuẩn giang mai gây tổn thương các rễ thần kinh sau cột sống.
Giang mai tim mạch:
Viêm động mạch chủ;
Phình động mạch chủ;
Hở van động mạch chủ;
Hẹp động mạch vành;
Viêm cơ tim.
Gôm giang mai:
Là những tổn thương đặc trưng của giang mai thời kỳ III, gôm giang mai gây tổn thương lớp hạ bì da.
Ban đầu gôm là những cục nằm bên dưới da, chúng dần phát triển to ra, mềm và chứa đầy dịch như nhựa cao su, khi vỡ ra tạo thành vết loét và để lại sẹo.
Gôm có thể xuất hiện trên bất kỳ vị trí nào, thường gặp nhất là ở miệng, môi, lưỡi, mũi, hầu,… có trường hợp gôm giang mai xuất hiện trong não.
2. Giang mai bẩm sinh
Giang mai bẩm sinh được xác định khi:
Thai phụ dương tính với giang mai.
Bị sảy thai hoặc thai chết lưu ở tuần thứ 20.
Trẻ dưới 2 tuổi có biểu hiện lâm sàng của bệnh.
Dấu hiệu giang mai bẩm sinh bao gồm:
Thai chết lưu hoặc sinh non ở 3 tháng giữa hoặc 3 tháng cuối thai kỳ.
Biểu hiện giang mai bẩm sinh với trẻ dưới 2 tuổi:
Bọng nước, viêm màng não, viêm mũi, viêm thanh quản, hạc, lá lách to, viêm xương sụn, viêm màng mạch – võng mạc.
Biểu hiện giang mai bẩm sinh ở trẻ trên 2 tuổi:
Viêm tai, viêm mắt, viêm khớp, dị dạng xương, các di chứng do tổn thương giang mai khi dưới 2 tuổi.
Hầu hết trường hợp trẻ sơ sinh không có dấu hiệu, triệu chứng điển hình khi mắc giang mai bẩm sinh.
Nguyên nhân nam giới bị giang mai
Nguyên nhân nam giới bị giang mai là do bẩm sinh hoặc lây nhiễm xoắn khuẩn Treponema pallidum (giang mai mắc phải).
Bệnh giang mai dễ lây lan ở thời kỳ I và II.
Đôi khi, nó cũng dễ lây lan trong thời kỳ giang mai kín giai đoạn muộn, xảy ra trong vòng 2 năm sau khi nhiễm bệnh.
1. Quan hệ tình dục không an toàn
Quan hệ tình dục không an toàn là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh giang mai.
Vi khuẩn Treponema pallidum lây lan khi tiếp xúc với vết loét của người bị nhiễm bệnh.
Quan hệ tình dục không an toàn qua đường âm đạo, miệng hoặc hậu môn đều bị nhiễm bệnh.
Vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể thông qua các vết cắt hoặc vết xước nhỏ trên da hoặc lớp lót ẩm bên trong của một số bộ phận cơ thể.
2. Tiếp xúc với vết loét giang mai
Vết loét giang mai chứa vi khuẩn gây bệnh.
Do đó, nếu người bệnh có vết loét trên môi, lưỡi, miệng, vú hoặc bộ phận sinh dục của sẽ dễ lây cho người khác.
Vi khuẩn giang mai có thể truyền sang em bé trong quá trình mang thai và sinh nở và đôi khi qua việc cho con bú.
3. Di truyền
Giang mai do di truyền hoặc giang mai bẩm sinh là một bệnh nhiễm trùng nặng, gây tàn tật và thường đe dọa tính mạng ở trẻ sơ sinh.
Nếu thai phụ bị nhiễm bệnh giang mai và không được điều trị đầy đủ, nhiễm trùng truyền qua nhau thai đến thai nhi.
4. Sử dụng chung dụng cụ cá nhân
Xoắn khuẩn giang mai có thể lây lan gián tiếp qua các đồ dùng, vật dụng nhiễm khuẩn như bàn chải đánh răng, son môi, khăn tắm,…
Khi tiếp xúc, xoắn khuẩn sẽ xâm nhập vào cơ thể qua các vết loét, vết xước trên da hoặc niêm mạc.
5. Tiếp xúc máu hoặc các dịch tiết từ người bệnh
Khi tiếp xúc với máu hoặc dịch tiết lẫn máu của người bệnh như truyền máu, dùng chung bơm kim tiêm, tiêm chích ma túy tập thể,… sẽ bị lây giang mai.
Bệnh giang mai không thể lây lan qua tiếp xúc thông thường với đồ vật mà người nhiễm bệnh đã chạm vào.
Một người không thể mắc giang mai khi sử dụng chung nhà vệ sinh, bồn tắm, quần áo, dụng cụ ăn uống, tay nắm cửa, bể bơi hoặc bồn tắm nước nóng.
Sau khi được chữa khỏi, bệnh giang mai sẽ không tự tái phát nếu không phơi nhiễm xoắn khuẩn.
Bệnh giang mai ở nam giới có nguy hiểm không?
Bệnh giang mai ở nam giới được bác sĩ Nam khoa đánh giá không quá nguy hiểm, có thể điều trị được. Thời kỳ I và II là điểm vàng để điều trị giang mai.
Nếu không được can thiệp điều trị kịp thời ở giai đoạn sớm, giang mai ở nam giới khi chuyển sang giai đoạn tiềm ẩn hoặc giai đoạn muộn, dẫn đến nhiều biến chứng kéo dài trong vài chục năm.
Ở giai đoạn muộn, giang mai ảnh hưởng đến nhiều cơ quan và hệ thống, bao gồm: não, dây thần kinh, mắt, gan, tim, mạch máu, xương và khớp,… có thể gây tử vong.
Biến chứng giang mai ở nam giới
Xoắn khuẩn giang mai Treponema pallidum có thể làm tổn thương mọi loại mô và mọi cơ quan trong cơ thể.
Chúng tồn tại trong cơ thể vô thời hạn, đe dọa đến sức khỏe toàn bộ cơ quan.
Nếu không được can thiệp điều trị kịp thời, giang mai ở nam giới gây các biến chứng nguy hiểm.
Sau khi bị nhiễm trùng và trước khi xuất hiện các vết loét đầu tiên, xoắn khuẩn đã xâm nhập vào máu và hệ bạch huyết.
Treponema pallidum là những vi sinh vật hình xoắn ốc, mỏng, nên dễ dàng xâm chiếm mọi ngóc ngách trong cơ thể.
Vi khuẩn có thể xâm nhập vào tim, xương và đường tiêu hóa, gây ảnh hưởng đến thính giác, thị giác và tất cả các cơ quan chính trong cơ thể, xâm lấn vào gan, da và đi khắp nọi nơi để phá hủy các cơ quan.
Treponema pallidum đi qua nhau thai để lây nhiễm sang thai nhi.
Phụ nữ mang thai khi nhiễm giang mai có nguy cơ bị thai chết lưu.
Khi vi khuẩn lây nhiễm vào hệ thần kinh trung ương là não và tủy sống, dẫn đến giang mai thần kinh.
Đây là loại giang mai nguy hiểm nhất, gây mù lòa, điên loạn, tê liệt hệ thống thần kinh và dẫn đến tử vong.
Khi nào cần phải gặp bác sĩ?
Đến gặp bác sĩ Nam khoa, bác sĩ Da liễu ngay nếu có bất kỳ triệu chứng nào của bệnh giang mai.
Chúng bao gồm: bất kỳ dịch tiết bất thường ở bộ phận sinh dục, vết loét hoặc phát ban, đặc biệt là ở vùng háng.
Thực hiện xét nghiệm tầm soát giang mai nếu:
Đã quan hệ tình dục với người có thể mắc bệnh.
Mắc một bệnh lây truyền qua đường tình dục khác như HIV.
Đang mang thai.
Thường xuyên quan hệ tình dục với nhiều bạn tình.
Quan hệ tình dục không an toàn, không dùng bao cao su.
Chẩn đoán giang mai ở nam giới như thế nào?
Bệnh giang mai có thể ủ bệnh và âm thầm khởi phát các triệu chứng mà người bệnh không hay biết.
Xét nghiệm xoắn khuẩn gần như là biện pháp duy nhất chẩn đoán giang mai.
1. Chẩn đoán gián tiếp bằng xét nghiệm huyết thanh giang mai
Có 2 loại xét nghiệm huyết thanh để chẩn đoán giang mai là xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu và đặc hiệu:
Xét nghiệm không đặc hiệu:
Là dạng xét nghiệm chẩn đoán giang mai được dùng nhiều hiện nay, bao gồm:
Xét nghiệm RPR (rapid plasma reagin card test) và VDRL (venereal disease research laboratory), giúp phát hiện kháng thể IgM và IgG kháng lipid không đặc hiệu, có thể cho kết quả dương tính giả trong 4 tuần.
Hãy thực hiện thêm xét nghiệm đặc hiệu nếu người bệnh được chẩn đoán dương tính giang mai.
Xét nghiệm đặc hiệu:
Bao gồm các xét nghiệm như TPHA (treponema pallidum hemagglutionation’s assay) TPPA (treponema pallidum particle agglutination assay) và FTA abs (fluorescent treponema antibody absortion’s test) để phát hiện kháng thể kháng lại kháng nguyên giang mai.
Xét nghiệm đặc hiệu thường được chỉ định khi xét nghiệm không đặc hiệu cho kết quả dương tính.
2. Phương pháp chẩn đoán trực tiếp
Các xét nghiệm tìm ra xoắn khuẩn gây bệnh giang mai, bao gồm:
Xét nghiệm soi tìm xoắn khuẩn trên kính hiển vi nền đen:
Là phương pháp đặc hiệu nhất hiện nay để chẩn đoán giang mai giai đoạn sớm.
Xét nghiệm tìm kháng thể huỳnh quang trực tiếp (DFA-direct fluorescent antibody):
Dùng kính hiển vi huỳnh quang để phát hiện xoắn khuẩn được nhuộm kháng thể globulin kháng T.pallidum có gắn lưu huỳnh, đây là xét nghiệm có tính ứng dụng cao.
Xét nghiệm khuếch đại axit nucleic (NAATs – nucleic acid amplification tests):
Trực tiếp tìm ra ADN của xoắn khuẩn gây bệnh giang mai bằng phản ứng khuếch đại axit nucleic.
Độ nhạy của phản ứng và mức độ chính xác của kết quả phụ thuộc vào mẫu sinh phẩm xét nghiệm PCR.
Ngoài ra, với sự phát triển của y học hiện nay, bác sĩ có thể chẩn đoán giang mai bằng các xét nghiệm nhanh, bao gồm 3 loại:
Đặc hiệu, không đặc hiệu và phối hợp.
Các xét nghiệm này không những xác định nhanh kết quả một người có dương tính với giang mai hay không, mà còn phát hiện nhiều bệnh truyền nhiễm khác như HIV.
Cần có đánh giá và kiểm định của Tổ chức Y tế Thế giới để có thể ứng dụng rộng rãi hơn trong chẩn đoán và điều trị giang mai.
Phương pháp điều trị giang mai ở nam giới
Phương pháp điều trị giang mai ở nam giới là điều trị bằng thuốc.
Bệnh giang mai rất dễ chữa khi được phát hiện và điều trị ở giai đoạn đầu.
Nguyên tắc trong điều trị giang mai là lựa chọn phác đồ điều trị theo giai đoạn bệnh và tình trạng bệnh hiện tại của người bệnh.
Phương pháp điều trị ưu tiên ở tất cả các giai đoạn là penicillin – một loại kháng sinh có thể tiêu diệt xoắn khuẩn Treponema pallidum gây bệnh giang mai.
Nếu bị dị ứng với penicillin, bác sĩ có thể cân nhắc lựa chọn 1 loại kháng sinh thay thế khác hoặc 1 phác đồ điều trị để cơ thể thích nghi với penicillin một cách an toàn theo thời gian.
Nếu mắc giang mai giai đoạn nguyên phát, thứ phát, có thể được điều trị 1 mũi penicillin duy nhất.
Nếu mắc bệnh lâu hơn một năm, cần dùng thêm liều.
Penicillin là phương pháp điều trị duy nhất được khuyên dùng cho phụ nữ mang thai.
Ngay cả khi thai phụ được điều trị giang mai, đứa trẻ sau khi được sinh ra vẫn phải xét nghiệm bệnh giang mai bẩm sinh.
Nếu bị nhiễm vi khuẩn, trẻ sẽ được điều trị bằng kháng sinh.
Ngày đầu tiên được điều trị, người bệnh có thể gặp phải hiện tượng gọi là phản ứng Jarisch-Herxheimer.
Các triệu chứng bao gồm: sốt, ớn lạnh, buồn nôn, đau nhức và nhức đầu.
Thông thường, phản ứng này không kéo dài quá một ngày.
Sau khi điều trị giang mai, bác sĩ có thể yêu cầu:
Làm xét nghiệm máu và kiểm tra thường xuyên để đảm bảo việc điều trị bằng penicillin có hiệu quả. Xét nghiệm máu sẽ cho thấy nhiễm trùng đã được chữa khỏi hay chưa.
Các xét nghiệm tiếp theo tùy thuộc vào giai đoạn bệnh giang mai mà người bệnh mắc phải, bác sĩ sẽ có hướng dẫn cụ thể.
Không quan hệ tình dục cho đến khi nhiễm trùng được chữa khỏi hoàn toàn và bác sĩ cho phép người bệnh trở lại hoạt động tình dục bình thường.
Báo cho bạn tình biết để họ được xét nghiệm và điều trị.
Xét nghiệm HIV.
Biện pháp phòng ngừa giang mai ở đàn ông
Sử dụng bao cao su và miếng chắn miệng đúng cách khi quan hệ tình dục.
Không quan hệ tình dục với bạn tình có triệu chứng nhiễm giang mai.
Xét nghiệm thường xuyên bệnh giang mai và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác, nếu có hoạt động tình dục không an toàn.
Chung thủy 1 vợ 1 chồng.
Quan hệ tình dục an toàn, chung thủy là phương án tốt nhất để phòng ngừa giang mai và các bệnh lây qua đường tình dục khác.
Bệnh giang mai ở nam giới hoàn toàn có thể chữa trị và phòng ngừa được.
Điều trị giang mai giai đoạn sớm mang lại kết quả điều trị tốt và hạn chế biến chứng.
TIP
Thời gian ủ bệnh giang mai kéo dài bao lâu?
Bệnh giang mai có thời gian ủ bệnh trung bình kéo dài trong khoảng 10 – 90 ngày, tính từ ngày phơi nhiễm, các dấu hiệu đầu tiên của nhiễm xoắn khuẩn Treponema pallidum có thể xuất hiện vào ngày thứ 21 trở đi.
Vì thể trạng của mỗi người bệnh khác nhau, cho nên thời gian ủ bệnh giang mai cũng có sự thay đổi, không nhất thiết phải kéo dài trong khoảng 10 – 90 ngày (tương đương khoảng 12 hoặc 13 tuần), trường hợp lâu hơn hoặc ngắn hơn vẫn có thể xảy ra.
Thời gian ủ bệnh là “thời điểm vàng” để điều trị giang mai nhanh chóng, hiệu quả, hạn chế tối đa biến chứng.
So với các nhiễm trùng tình dục khác, thời gian ủ bệnh giang mai khá dài, có thể chia ra thành 4 thời kỳ, tương đương với 4 giai đoạn tiến triển bệnh và là đáp án cụ thể cho câu hỏi “thời gian ủ bệnh giang mai kéo dài trong bao lâu?”:
1. Thời kỳ I (giai đoạn 1)
Thời gian ủ bệnh trong thời kỳ I tương ứng với giai đoạn 1 (sơ cấp) trong diễn biến bệnh giang mai, kéo dài trong khoảng 10 – 60 ngày, kể từ khi nhiễm khuẩn.
Lúc này, cơ thể người bệnh sẽ xuất hiện các triệu chứng giang mai đầu tiên là các vết săng.
Chúng có hình tròn hoặc bầu dục, chạm vào có cảm giác cứng và không đau, săng chủ yếu xuất hiện ở niêm mạc vùng sinh dục hoặc miệng, niêm mạc hậu môn,…
Chúng âm thầm xuất hiện và biến mất sau 3 – 6 tuần.
2. Thời kỳ II (giai đoạn 2)
Ở thời kỳ II, thời gian ủ bệnh giang mai kéo dài trong bao lâu? đáp án là kéo dài từ sau 4 – 8 tuần kể từ khi xuất hiện các triệu chứng giang mai sơ cấp.
Khi này, cơ thể xuất hiện các vết phát ban không đau nhưng có thể ngứa, tập trung chủ yếu ở lòng bàn tay, bàn chân.
Đi kèm với đó, người bệnh có những biểu hiện suy giảm hệ miễn dịch như: sốt, đau họng, đau cơ, mệt mỏi, sưng hạch bạch huyết,…
3. Thời kỳ tiềm ẩn (giang mai kín)
Thời kỳ tiềm ẩn (giang mai kín) khó xác định chính xác thời gian ủ bệnh.
Thời gian ủ bệnh giang mai kín được tính từ khi các triệu chứng của giang mai thời kỳ II biến mất.
Hầu như các trường hợp giang mai kín không biểu hiện triệu chứng trong thời kỳ tiềm ẩn.
Thông thường, thời kỳ tiềm ẩn chia làm 2 trường hợp:
Tiềm ẩn sớm, thời gian ủ bệnh dưới 1 năm.
Tiềm ẩn muộn, thời gian ủ bệnh trên 1 năm.
Hiểu thêm về giai đoạn phát triển bệnh giang mai
1. Thời kỳ I
Thời kỳ I là giai đoạn đầu tiên của nhiễm trùng, xảy ra trong vòng 10 – 90 ngày (trung bình 21 ngày) sau khi tiếp xúc với vi khuẩn Treponema pallidum.
Triệu chứng đặc trưng là vết loét không đau gọi là săng.
Vết loét xuất hiện ở nơi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể, thường ở bộ phận sinh dục, trực tràng hoặc miệng.
Hầu hết giang mai thời kỳ 1, người bệnh không xuất hiện nhiều hơn 1 săng.
Mặc dù săng không gây đau nhưng nó có khả năng lây nhiễm cao và có thể dễ dàng truyền vi khuẩn sang người khác thông qua tiếp xúc trực tiếp.
Săng thường tự lành ngay cả khi không điều trị.
Nhưng điều này không có nghĩa là nhiễm trùng đã biến mất. Nếu không được điều trị, bệnh sẽ tiến triển sang thời kỳ II – giai đoạn thứ cấp.
2. Thời kỳ II (giai đoạn thứ cấp)
Giang mai thời kỳ II do giang mai thời kỳ I không được điều trị tiến triển thành.
Sau vài tuần đến vài tháng, tính từ khi vết loét ban đầu lành lại, giang mai sẽ tiến triển sang thời kỳ II.
Không phải tất cả trường hợp nhiễm giang mai đều có triệu chứng đặc hiệu trong giai đoạn này, nhiều trường hợp xuất hiện các triệu chứng rất khác nhau.
Triệu chứng phổ biến nhất là phát ban trên da và không ngứa.
Phát ban do giang mai có thể xuất hiện ở bất cứ đâu trên cơ thể nhưng thường thấy ở lòng bàn tay hoặc bàn tay, lòng bàn chân.
Phát ban có thể có nhiều dạng như:
Xuất hiện đốm thô ráp, đỏ hoặc nâu đỏ, hoặc có triệu chứng giống với các tình trạng dị ứng da khác.
Tổn thương màng nhầy có thể xuất hiện dưới dạng vết loét ở miệng, cổ họng hoặc vùng sinh dục.
Đi kèm với: sốt, sưng hạch bạch huyết, đau họng, rụng tóc từng mảng, nhức đầu, đau cơ, mệt mỏi ở những vùng ấm, ẩm như háng hoặc nách.
Giai đoạn 2 là giai đoạn dễ lây bệnh nhất.
Tương tự như thời kỳ I, các triệu chứng thường khỏi trong vòng vài tuần đến vài tháng, ngay cả khi không điều trị.
3. Thời kỳ tiềm ẩn (giang mai kín)
Trong thời kỳ tiềm ẩn, vi khuẩn gây bệnh vẫn tồn tại trong cơ thể mà không gây ra triệu chứng.
Thời gian ủ bệnh giang mai tiềm ẩn được tính từ khi phát ban ở thời kỳ II biến mất.
Nhưng giai đoạn tiềm ẩn cũng có thể xảy ra giữa thời kỳ I và II, kéo dài trong nhiều năm và âm thầm tiến triển sang thời kỳ III, gây những biến chứng nguy hiểm.
4. Thời kỳ III
Giang mai thời kỳ 3 đã qua thời gian ủ bệnh, tiến triển đến các biến chứng nguy hiểm, gây khó khăn trong điều trị.
Các biến chứng của giang mai thời kỳ III có thể xuất hiện sau 10 – 30 năm nhiễm bệnh, nếu không điều trị kịp thời có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh, tai, mắt, viêm màng não, nhiễm trùng, tê liệt một số bộ phận,…
Biến chứng nguy hiểm nhất chính là giang mai thần kinh, đe dọa trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng.
Cách nhận biết giang mai sau giai đoạn ủ bệnh
Sau khi xác định được thời gian ủ bệnh giang mai kéo dài trong bao lâu cụ thể qua từng thời kỳ.
Người bệnh cần biết cách nhận biết giang mai sau giai đoạn ủ bệnh.
Cách nhận biết giang mai sau thời gian ủ bệnh chính là dựa trên các triệu chứng đặc trưng của bệnh qua từng giai đoạn.
Săng thương không đau là dấu hiệu đặc trưng để nhận biết giang mai thời kỳ I.
Ở giai đoạn này, thường xuất hiện 1 săng thương duy nhất, có màu đỏ, cứng, hình tròn, không gây đau và chứa rất nhiều vi khuẩn.
Săng thương thường xuất hiện ở những khu vực nhiễm xoắn khuẩn giang mai như: bộ phận sinh dục, hậu môn, trực tràng, cổ tử cung, đáy chậu.
Nếu quan hệ bằng miệng, săn thương có thể xuất hiện ở môi, niêm mạc miệng hoặc quanh miệng.
Nên làm gì khi phát hiện bản thân mắc bệnh giang mai?
Khi phát hiện bản thân mắc bệnh giang mai hoặc nghi nhiễm, người bệnh tốt nhất nên đến ngay cơ sở y tế để được chẩn đoán và can thiệp điều trị sớm nhất có thể, tránh bệnh tiến triển đến giai đoạn muộn, gây những biến chứng nghiêm trọng.
Sau khi các bác sĩ tiến hành xét nghiệm sàng lọc bệnh và có kết luận cuối cùng về kết quả dương tính (mắc bệnh) giang mai, xác định giai đoạn nhiễm trùng, sẽ tiến hành điều trị bằng kháng sinh, chủ yếu là penicillin.
Loại thuốc cụ thể, liều dùng và thời gian điều trị sẽ phụ thuộc vào giai đoạn nhiễm trùng và thể trạng người bệnh.
Cần thông báo cho bạn tình biết nếu bản thân bị nhiễm giang mai để họ chủ động xét nghiệm và điều trị. Điều này giúp ngăn ngừa sự lây nhiễm và bảo vệ sức khỏe của họ.
Trong quá trình chữa trị cần kiêng các hoạt động tình dục cho đến khi bản thân và bạn tình đã hoàn thành việc điều trị và bác sĩ cho phép.
Ngay cả khi đã được điều trị khỏi giang mai, người bệnh cũng cần thường xuyên làm xét nghiệm theo dõi để đảm bảo nhiễm trùng đã được chữa khỏi hoàn toàn.
Xét nghiệm định kỳ nếu vẫn có các hoạt động tình dục để phát hiện sớm nếu bệnh tái phát.
Thai phụ mắc giang mai không được điều trị có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho thai nhi và lây bệnh cho trẻ sau khi sinh.
Bệnh giang mai là bệnh nhiễm trùng có thể điều trị được và can thiệp sớm có thể giúp bệnh được chữa khỏi hoàn toàn, tránh những biến chứng tiềm ẩn và nguy hiểm.
Phương pháp điều trị giang mai hiệu quả hiện nay
Phương pháp điều trị bệnh giang mai hiệu quả nhất, bất kể giai đoạn nào, là điều trị bằng kháng sinh penicillin.
Đây là phương pháp điều trị duy nhất được Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) khuyến nghị cho những người mang thai mắc bệnh giang mai.
Dựa trên từng tình trạng và mức độ nhiễm khuẩn giang mai của từng trường hợp, sau khi có kết quả xét nghiệm và chẩn đoán, bác sĩ sẽ có phương án điều trị và sử dụng liều penicillin phù hợp.
Mỗi trường hợp bệnh và giai đoạn khác nhau, phác đồ điều trị có thể khác nhau.
Sau 24 giờ kể từ khi bắt đầu điều trị giang mai, cơ thể sẽ có những phản ứng đầu tiên với thuốc, bao gồm: sốt, ớn lạnh, nhức đầu và đau cơ.
Các triệu chứng có thể gây khó chịu nhưng thường không nguy hiểm và tự khỏi.
Trong suốt quá trình điều trị, người bệnh cần được xét nghiệm thường xuyên để theo dõi diễn biến của bệnh cũng như mức độ hiệu quả của phác đồ điều trị.
Người bệnh cần tuân thủ nghiêm ngặt các chỉ định từ bác sĩ để giúp quá trình điều trị diễn ra thuận lợi, đạt hiệu quả cao.
Biện pháp phòng ngừa bệnh giang mai
Sử dụng bao cao su và màng bảo vệ khi quan hệ.
Trong các hoạt động tình dục, tránh tiếp xúc tình dục với bạn tình có triệu chứng nhiễm bệnh giang mai.
Tránh tiếp xúc với săng thương, dịch tiết từ săng thương của người bệnh.
HƯỚNG DẪN CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH GIANG MAI
I. ĐẠI CƯƠNG
Bệnh giang mai là bệnh lây truyền từ người sang người qua đường tình dục do xoắn khuẩn giang mai (Treponema pallidum) gây nên.
Bệnh có thể gây tổn thương ở da, niêm mạc, nếu không được điều trị có thể gây tổn thương các tổ chức và cơ quan khác của cơ thể như cơ, xương, khớp, tim mạch và thần kinh.
Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), trong năm 2020, thế giới có khoảng 7,1 triệu trường hợp giang mai mới mắc.
Số ca mắc mới ở khu vực Tây Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam, chiếm 1,1 triệu ca.
Xoắn khuẩn giang mai rất yếu, ở ngoài cơ thể chỉ sống được vài giờ.
Nhiệt độ thích hợp cho xoắn khuẩn phát triển là 37 độ C.
Xà phòng và các chất sát khuẩn có thể diệt được xoắn khuẩn trong vài phút.
Xoắn khuẩn xâm nhập vào cơ thể người lành qua quan hệ tình dục đường âm đạo, đường hậu môn hoặc đường miệng.
Bệnh cũng có thể lây gián tiếp qua các đồ dùng, vật dụng bị nhiễm xoắn khuẩn hoặc lây qua các vết xước trên da, niêm mạc.
Ngoài ra, bệnh có thể lây truyền qua đường máu hoặc từ mẹ bị giang mai sang con trong thời kỳ mang thai.
II. CHẨN ĐOÁN
2.1. Các giai đoạn của giang mai
Bệnh giang mai nếu không được chẩn đoán và điều trị có thể tồn tại rất nhiều năm và được chia làm 2 giai đoạn: giang mai sớm và giang mai muộn.
- Giang mai sớm, gồm:
+ Giang mai thời kỳ I (primary syphilis)
+ Giang mai thời kỳ II (secondary syphilis)
+ Giang mai kín sớm: giang mai kín (không có biểu hiện lâm sàng) và thời gian mắc £ 2 năm.
- Giang mai muộn, gồm:
+ Giang mai kín muộn: giang mai kín (không có biểu hiện lâm sàng) và thời gian mắc > 2 năm
+ Giang mai thời kỳ III (có tổn thương ăn sâu vào tổ chức da, niêm mạc, tim mạch, thần kinh).
2.2. Triệu chứng lâm sàng
2.2.1. Giang mai mắc phải
a) Giang mai thời kỳ I
- Biểu hiện lâm sàng đặc trưng: săng đơn độc, xuất hiện tại nơi xoắn khuẩn xâm nhập vào cơ thể, thường ở âm đạo, dương vật, hậu môn (hoặc có thể ở những vị trí ngoài sinh dục).
Săng thường xuất hiện khoảng 3 tuần sau lây nhiễm (khoảng 9-90 ngày), có thể hết trong vòng 3-10 tuần dù điều trị hay không.
Người bệnh có thể không để ý khi thấy xuất hiện săng hoặc thấy săng tự mất.
- Nếu không được chẩn đoán và điều trị trong thời kỳ này, sau 4-8 tuần từ khi xuất hiện tổn thương ban đầu, bệnh sẽ tiến triển sang giang mai thời kỳ II.
b) Giang mai thời kỳ II
- Biểu hiện lâm sàng đặc trưng: tổn thương da và niêm mạc, lan rộng.
+ Đào ban có hình thái đa dạng, có thể giống với tổn thương ban/dát đỏ ở các bệnh lý khác.
Nhưng tổn thương trong giang mai đặc trưng ở vị trí lòng bàn tay, bàn chân, tổn thương đối xứng hai bên và không ngứa.
Tổn thương cũng có thể rất kín đáo, dễ bị bỏ qua trên lâm sàng.
+ Mảng niêm mạc:
Các vết trợt màu trắng, hay gặp ở niêm mạc miệng, lưỡi, sinh dục.
+ Sẩn giang mai:
Màu đỏ hồng, hình bán cầu, xung quanh có viền vảy (viền vảy Biett), có thể xuất hiện ở các vùng da khác nhau, đa dạng về hình thái (sẩn dạng vảy nến, sẩn dạng trứng cá, sẩn dạng thuỷ đậu, sẩn loét).
Sẩn sùi giang mai (condylomata lata) thường xuất hiện ở các vị trí nóng, ẩm như hậu môn, âm hộ.
Đây là các tổn thương trợt nông màu trắng/xám, nổi gồ cao, là kết quả của sự lây lan xoắn khuẩn
giang mai từ tổn thương tiên phát.
+ Có thể đi kèm các triệu chứng không đặc hiệu khác như mệt, sốt, nổi hạch vùng, rụng tóc, đau đầu.
- Triệu chứng của giang mai thời kỳ II có thể tự mất đi dù không điều trị gì.
Tuy nhiên, nếu bệnh nhân không được điều trị, bệnh sẽ tiến triển sang giang mai kín.
Người bệnh trong thời kỳ giang mai II có nguy cơ cao lây nhiễm cho người khác.
c) Giang mai kín (giang mai tiềm ẩn)
- Không có dấu hiệu, triệu chứng lâm sàng.
Vì thế, chỉ có thể phát hiện bằng xét nghiệm huyết thanh.
- Được chia làm 2 giai đoạn:
Giang mai kín sớm (thời gian mắc £ 2 năm) và giang mai kín muộn (thời gian mắc > 2 năm). Những bệnh nhân không biết chắc chắn thời gian nhiễm bệnh nên được điều trị theo phác đồ giang mai kín muộn.
Giang mai lây truyền qua đường tình dục thường chỉ xảy ra ở giang mai thời kỳ I, thời kỳ II và giang mai kín sớm.
Tuy nhiên, lây truyền từ mẹ sang con thì có thể xảy ra sau nhiều năm kể từ thời điểm nhiễm khuẩn ban đầu.
- Nếu không được chẩn đoán và điều trị, hầu hết bệnh nhân vẫn ở giai đoạn giang mai kín.
Khoảng 25% bệnh nhân sẽ tiến triển thành giang mai thời kỳ III.
d) Giang mai thời kỳ III
- Bệnh ảnh hưởng đến bất kỳ cơ quan nào trong cơ thể, có thể xảy ra sau thời điểm nhiễm khuẩn ban đầu thậm chí ³ 30 năm.
- Biểu hiện lâm sàng đặc trưng: biểu hiện thần kinh (giang mai thần kinh), biểu hiện tim mạch (giang mai tim mạch) và các tổn thương gôm giang mai.
+ Giang mai thần kinh có thể xuất hiện ở bất kỳ giai đoạn nào của bệnh, thậm chí trong vài tháng đầu.
Các triệu chứng thần kinh sớm bao gồm:
Thay đổi trạng thái tâm thần cấp tính, viêm màng não, đột quỵ, rối loạn chức năng dây thần kinh sọ, bất thường về thính giác, mắt và thị giác.
Giang mai thần kinh muộn có thể xảy ra 10-30 năm hoặc lâu hơn kể từ thời điểm mắc bệnh và đặc trưng bởi tổn thương các rễ thần kinh sau của cột sống và liệt nhẹ toàn thể.
+ Giang mai tim mạch thường biểu hiện:
Viêm động mạch chủ, phình động mạch chủ, hở van động mạch chủ, hẹp động mạch vành, một số trường hợp có thể có viêm cơ tim.
+ Gôm giang mai:
Là thương tổn đặc trưng của giang mai thời kỳ III.
Gôm là thương tổn chắc ở hạ bì, tiến triển qua 4 giai đoạn:
Ban đầu là những cục dưới da, các cục này dần to ra, mềm, vỡ chảy dịch dính giống như nhựa cao su tạo thành vết loét; vết loét dần lên da non rồi thành sẹo.
Gôm có thể nhiều hoặc ít và có thể khu trú ở bất kỳ chỗ nào.
Vị trí thường gặp là mặt, da đầu, mông, đùi, mặt ngoài phần trên cẳng chân…
Ở niêm mạc, vị trí thường gặp là miệng, môi, vòm miệng, lưỡi, mũi, hầu…, ngoài ra có thể có gôm trong não.
2.2.2. Giang mai bẩm sinh
- Giang mai bẩm sinh được xác định khi:
+ Sảy thai, thai chết lưu hoặc trẻ được sinh ra từ tuần thứ 20 của thai kỳ trở đi hoặc cân nặng trên 500gam (tương đương tuổi thai 20 tuần trở lên), có mẹ xét nghiệm huyết thanh giang mai dương tính và không được điều trị đúng, đủ;
+ Trẻ sinh ra dưới 2 tuổi, có triệu chứng lâm sàng của giang mai bẩm sinh hoặc có xét nghiệm giang mai dương tính (xem phần chẩn đoán giang mai bẩm sinh).
- Biểu hiện thường gặp nhất của giang mai bẩm sinh là thai lưu hoặc đẻ non ở 3 tháng giữa hoặc 3 tháng cuối của thai kỳ.
Vì vậy, tất cả các bà mẹ bị thai lưu cần làm xét nghiệm huyết thanh giang mai.
Ở hầu hết các quốc gia, đa số giang mai bẩm sinh gây hậu quả thai chết lưu và những trường hợp này thường bỏ sót nguyên nhân thai chết lưu do giang mai.
- Trẻ em được sinh ra từ những bà mẹ có xét nghiệm huyết thanh giang mai dương tính cần được khám, phát hiện những dấu hiệu, triệu chứng của giang mai bẩm sinh sớm bao gồm:
Bọng nước, viêm mũi, viêm thanh quản, hạch, gan lách to, viêm xương sụn, viêm màng bụng, viêm màng não, viêm màng mạch-võng mạc.
- Biểu hiện của giang mai bẩm sinh muộn ở trẻ > 2 tuổi bao gồm:
Viêm mắt, tai, khớp, dị dạng xương và các di chứng do các thương tổn của giang mai bẩm sinh sớm.
- Tuy nhiên, rất nhiều trẻ sơ sinh bị giang mai mà không có các dấu hiệu, triệu chứng rõ ràng, điển hình.
2.3. Cận lâm sàng
2.3.1. Phƣơng pháp gián tiếp: xét nghiệm huyết thanh giang mai
- Có 2 loại xét nghiệm phản ứng huyết thanh chẩn đoán giang mai:
Xét nghiệm không đặc hiệu và đặc hiệu.
- Bệnh phẩm chủ yếu là huyết thanh.
Một số xét nghiệm không đặc hiệu có thể dùng bệnh phẩm là huyết tương.
Ngoài ra, bệnh phẩm dịch não tủy được dùng để chẩn đoán giang mai bẩm sinh, giang mai III và khi có triệu chứng thần kinh.
a) Xét nghiệm không đặc hiệu
- Các xét nghiệm không đặc hiệu phổ biến và hay được sử dụng nhất là RPR (rapid plasma reagin card test) và VDRL (venereal disease research laboratory).
- Các xét nghiệm này phát hiện kháng thể IgM hoặc IgG kháng lipid không đặc hiệu.
Những kháng thể này cũng có thể được phát hiện ở một số bệnh khác như sốt vi rút, một số bệnh tự miễn, vì vậy có thể cho kết quả dương tính giả và không đặc hiệu cho bệnh giang mai.
- Có thể có kết quả âm tính giả trong vòng 4 tuần đầu sau khi xuất hiện tổn thương sơ phát và trong giang mai muộn.
- Trong giang mai thời kỳ I và II, phản ứng không đặc hiệu có thể âm tính giả do hiện tượng trước vùng phát hiện (phản ứng prozone: do nồng độ kháng thể trong bệnh phẩm rất cao, ngăn cản sự hình thành mạng lưới kháng nguyên - kháng thể).
Bệnh nhân có tổn thương nghi ngờ giang mai thời kỳ I, cần làm xét nghiệm lại sau 2-4 tuần
để khẳng định chẩn đoán.
Xét nghiệm không đặc hiệu âm tính ở thời điểm 3 tháng sau khi xuất hiện tổn thương săng có thể loại trừ bệnh giang mai.
- Các trường hợp dương tính giả thường có hiệu giá kháng thể < 1/4.
- Xét nghiệm không đặc hiệu định tính được sử dụng phối hợp với xét nghiệm đặc hiệu để chẩn đoán giang mai.
- Xét nghiệm không đặc hiệu định lượng được sử dụng để theo dõi hiệu quả điều trị dựa vào sự thay đổi của hiệu giá kháng thể.
Nếu điều trị hiệu quả, hiệu giá kháng thể sẽ giảm.
Nếu bệnh không đáp ứng tốt với điều trị, hiệu giá kháng thể sẽ tăng.
- Hiệu giá kháng thể thay đổi (tăng/giảm) ≥ 4 lần, tương đương ≥ 2 lần pha loãng huyết thanh giữa 2 lần xét nghiệm liên tiếp nhau thì được xem là thay đổi có ý nghĩa (cùng một phương pháp (RPR hoặc VDRL) và cùng một phòng xét nghiệm) (ví dụ: từ 1/16 giảm xuống 1/4 ở bệnh nhân có đáp ứng với điều trị, hoặc từ 1/8 tăng lên 1/32 đối với trường hợp không đáp ứng tốt với điều trị).
- Nếu hiệu giá kháng thể chỉ thay đổi ≤ 2 lần, tương đương 1 lần pha loãng (ví dụ: 1/8 và 1/4, 1/2 và 1/1) thì được xem không có ý nghĩa.
b) Xét nghiệm đặc hiệu
- Bao gồm TPHA (treponema pallidum hemagglutionation’s assay), TPPA (treponema pallidum particle agglutination assay) và FTA abs (fluorescent treponema antibody absortion’s test).
- Phát hiện kháng thể kháng lại kháng nguyên giang mai đặc hiệu nên có tính đặc hiệu cao.
Tuy nhiên, xét nghiệm này không phân biệt được kháng nguyên trong bệnh giang mai và các bệnh do xoắn khuẩn khác gây nên (ví dụ: bệnh ghẻ cóc).
- Sau khi điều trị đúng, xét nghiệm đặc hiệu vẫn dương tính kéo dài suốt đời (85%), vì vậy xét nghiệm đặc hiệu không phân biệt được bệnh đang trong thời kỳ hoạt động hay đã được điều trị và không dùng để theo dõi sau điều trị.
- Xét nghiệm đặc hiệu được chỉ định sau khi có kết quả dương tính với xét nghiệm không đặc hiệu để chẩn đoán khẳng định hoặc ngược lại.
2.3.2. Phương pháp trực tiếp
a) Xét nghiệm soi tìm xoắn khuẩn trên kính hiển vi nền đen
- Bệnh phẩm: dịch tiết từ tổn thương nghi ngờ trên da, niêm mạc, hạch…
- Soi tìm xoắn khuẩn trên kính hiển vi nền đen thấy xoắn khuẩn giang mai dưới dạng lò xo, di động.
- Đây là phương pháp đặc hiệu nhất để chẩn đoán giang mai ở giai đoạn sớm.
Xét nghiệm có độ đặc hiệu cao, nhưng độ nhạy thấp (thường < 50%), nên xét nghiệm soi tìm xoắn khuẩn âm tính không loại trừ được giang mai.
- Xét nghiệm cần được thực hiện ngay sau khi lấy bệnh phẩm.
- Xét nghiệm cần các thiết bị đặc biệt và kỹ thuật viên đã được tập huấn, có kinh nghiệm, vì vậy thường chỉ có thể tiến hành trong các phòng xét nghiệm chuyên sâu.
Đây là một trong những phương pháp có độ tin cậy cao nhất để trực tiếp phát hiện T.pallidum, nhưng tính ứng dụng không cao.
b) Xét nghiệm tìm kháng thể huỳnh quang trực tiếp (DFA-direct fluorescent antibody)
- Dùng kính hiển vi huỳnh quang để phát hiện xoắn khuẩn được nhuộm kháng thể globulin kháng T. pallidum có gắn huỳnh quang.
- Bệnh phẩm được lấy như xét nghiệm soi tìm xoắn khuẩn trên kính hiển vi nền đen nhưng xoắn khuẩn được nhuộm kháng thể gắn huỳnh quang nên dễ được phát hiện hơn, không bị nhầm lẫn với các vi sinh vật khác, nên xét nghiệm DFA có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn.
- Xét nghiệm cần các thiết bị và chế phẩm huỳnh quang đặc biệt, vì vậy tính ứng dụng không cao.
c) Xét nghiệm khuếch đại axit nucleic (NAATs – nucleic acid amplification tests)
- Xét nghiệm trực tiếp tìm ADN xoắn khuẩn T. pallidum bằng phản ứng khuếch đại axit nucleic (còn gọi là xét nghiệm khuếch đại gen, trong đó có xét nghiệm PCR).
- Bệnh phẩm: dịch tiết từ tổn thương da, mô, dịch cơ thể.
- Độ nhạy khác nhau, phụ thuộc vào bộ sinh phẩm PCR.
- Giá thành cao hơn so với các xét nghiệm chẩn đoán giang mai khác; cần có các thiết bị xét nghiệm chuyên dụng và cán bộ xét nghiệm được đào tạo để thực hiện xét nghiệm PCR.
2.3.3. Xét nghiệm nhanh chẩn đoán giang mai
- Các xét nghiệm nhanh chẩn đoán giang mai (rapid diagnostic tests) đã và đang được phát triển mạnh trong vài thập kỷ qua.
- Hiện nay, xét nghiệm nhanh chẩn đoán giang mai được sử dụng rộng rãi để sang lọc trong cộng đồng, đặc biệt cho các nhóm đối tượng nguy cơ cao (phụ nữ mại dâm, nam quan hệ tình dục đồng giới) và trong chương trình phòng chống HIV/AIDS.
- Các xét nghiệm nhanh có thể được thực hiện tại các cơ sở y tế hoặc tại cộng đồng.
Xét nghiệm tại cộng đồng được thực hiện bởi các nhân viên tiếp cận cộng đồng đã được tập huấn đầy đủ.
- Xét nghiệm nhanh cho kết quả xác định kháng thể kháng giang mai trong 10-15 phút và không cần tủ lạnh bảo quản bệnh phẩm hay dụng cụ xét nghiệm nên có thể tiến hành được ở nhiều tuyến khác nhau.
- Xét nghiệm nhanh có độ nhạy từ 85-98% và độ đặc hiệu từ 93-98% (lấy xét nghiệm đặc hiệu TPHA hoặc TPPA làm chuẩn).
- Nhìn chung, xét nghiệm nhanh có độ nhạy cao có xu hướng có độ đặc hiệu thấp hơn và ngược lại.
- Có 3 loại xét nghiệm nhanh chẩn đoán giang mai: đặc hiệu, không đặc hiệu và phối hợp.
a) Xét nghiệm đặc hiệu
- Hầu hết các xét nghiệm nhanh sử dụng kháng nguyên T. pallidum để phát hiện kháng thể đặc hiệu giang mai.
Nguyên lý của xét nghiệm nhanh chẩn đoán giang mai giống với xét nghiệm huyết thanh đặc hiệu, nên kết quả xét nghiệm nhanh dương tính không phân biệt được bệnh giang mai đang hoạt động hay trước đây đã được điều trị.
- Xét nghiệm nhanh kép HIV/giang mai phát hiện kháng thể kháng HIV và kháng thể đặc hiệu giang mai trong một lần xét nghiệm đã được nghiên cứu và sử dụng tại cơ sở y tế và tại cộng đồng.
Sau khi có kết quả dương tính cần làm thêm xét nghiệm không đặc hiệu để chẩn đoán xác định.
Hiện nay, xét nghiệm nhanh kép này đang được sử dụng cho các quần thể nguy cơ cao (phụ nữ mại dâm, nam quan hệ tình dục đồng giới, người chuyển giới) và phụ nữ mang thai.
Việc sử dụng xét nghiệm nhanh kép HIV/giang mai đã làm tăng sự tiếp cận với xét nghiệm cũng như có chi phí-hiệu quả cao.
b) Xét nghiệm không đặc hiệu
Gần đây, các xét nghiệm nhanh phát hiện kháng thể kháng kháng nguyên cardiolipin, có nguyên lý hoạt động giống xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu đang được nghiên cứu và ứng dụng.
c) Xét nghiệm nhanh phối hợp đặc hiệu và không đặc hiệu
Các xét nghiệm nhanh không đặc hiệu được kết hợp với xét nghiệm đặc hiệu giang mai, nên có thể vừa sàng lọc (tương đương RPR/VDRL) vừa khẳng định chẩn đoán (tương đương TPHA/TPPA).
Tuy nhiên, những xét nghiệm kép này chưa được đánh giá và kiểm định bởi Tổ chức Y tế thế giới.
2.4. Chẩn đoán xác định
2.4.1. Giang mai mắc phải
- Người bệnh được chẩn đoán xác định giang mai khi có kết quả dương tính với 01 xét nghiệm huyết thanh đặc hiệu (bao gồm cả xét nghiệm nhanh) và 01 xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu.
Việc lựa chọn và phối hợp xét nghiệm đặc hiệu và không đặc hiệu phụ thuộc vào sự sẵn có của các xét nghiệm này tại mỗi cơ sở y tế.
- Ngoài ra có thể dựa vào các xét nghiệm trực tiếp như kính hiển vi nền đen, xét nghiệm kháng thể huỳnh quang trực tiếp và xét nghiệm khuếch đại gen.
2.4.2. Giang mai bẩm sinh
- Tất cả trẻ sinh ra từ những bà mẹ có kết quả huyết thanh giang mai dương tính, cần được khám và làm xét nghiệm để tìm bằng chứng giang mai bẩm sinh.
Đối với trẻ sinh ra từ mẹ bị giang mai nhưng không được điều trị đầy đủ ít nhất 30 ngày trước khi sinh hoặc không được điều trị, cần được xét nghiệm ngay ở thời điểm mới sinh ra và hàng tháng trong vòng 3-4 tháng cho đến khi khẳng định về mặt huyết thanh là âm tính.
Một số trường hợp kháng thể thụ động từ mẹ có thể tồn tại tới 18 tháng.
Vì vậy, nếu xét nghiệm huyết thanh của trẻ vẫn dương tính và hiệu giá kháng thể tăng ≥ 4 lần
hiệu giá kháng thể của mẹ thì trẻ cần được điều trị giang mai bẩm sinh.
- Trẻ sinh ra dưới 2 tuổi có mẹ bị giang mai được chẩn đoán giang mai bẩm sinh khi có triệu chứng lâm sàng của giang mai bẩm sinh hoặc có xét nghiệm giang mai dương tính, bao gồm một trong những xét nghiệm sau:
+ Xét nghiệm tìm xoắn khuẩn trên kính hiển vi nền đen hoặc xét nghiệm kháng thể huỳnh quang trực tiếp: thấy sự có mặt của T. pallidum.
Bệnh phẩm lấy từ dây rốn, nhau thai, dịch tiết từ mũi hoặc tổn thương da.
+ Xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu dương tính và có hiệu giá kháng thể cao gấp ³ 4 lần hiệu giá kháng thể của mẹ.
- Trong một số trường hợp giang mai bẩm sinh, có thể phối hợp X-quang để xác định chẩn đoán.
2.5. Chẩn đoán phân biệt
Tuỳ thuộc vào biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân.
- Chẩn đoán phân biệt săng/loét giang mai:
+ Loét ở sinh dục:
Nhiễm herpes simplex sinh dục, hạ cam, loét áp sinh dục, chấn thương, ung thư.
+ Loét ở hậu môn:
Nhiễm herpes simplex hậu môn-sinh dục, nứt kẽ hậu môn, chấn thương, nhiễm khuẩn khác.
+ Loét ở miệng:
Herpes simplex miệng, loét áp, chấn thương.
- Chẩn đoán phân biệt đào ban giang mai: dị ứng thuốc, vảy phấn hồng, vảy nến, chàm/viêm da cơ địa.
- Chẩn đoán phân biệt sẩn sùi giang mai (condylomata lata): sùi mào gà và các bệnh lý hạt cơm khác.
III. ĐIỀU TRỊ
3.1. Nguyên tắc điều trị
- Lựa chọn phác đồ điều trị dựa vào giai đoạn bệnh: giang mai sớm (≤ 2 năm) hay giang mai muộn (> 2 năm hoặc không xác định thời gian).
Bạn tình hiện tại và trong vòng 1 năm cần được đi khám, làm xét nghiệm giang mai và điều trị nếu mắc bệnh.
- Chủ yếu điều trị ngoại trú, chỉ điều trị nội trú trong trường hợp giang mai thời kỳ III (có biểu hiện tim mạch và thần kinh) và giang mai bẩm sinh.
3.2. Điều trị cụ thể
3.2.1. Đối với bệnh nhân người lớn và vị thành niên
Phác đồ ưu tiên | Phác đồ thay thế | |
Giang mai sớm (≤ 2 năm) |
Benzathin penicillin 2,4 triệu đơn vị, tiêm bắp sâu, liều duy nhất |
Trong trường hợp không có benzathin penicillin, thay thế bằng phác đồ sau: - Procain penicillin 1,2 triệu đơn vị, tiêm bắp sâu, 1 lần/ngày, trong 10-14 ngày. Nếu không có procain penicillin hoặc bệnh nhân có tiền sử dị ứng với penicillin à lựa chọn một trong các phác đồ sau: - Doxycyclin 100mg, uống 2 lần/ ngày, trong 14 ngày; - Ceftriaxon 1g, tiêm bắp sâu, 1 lần/ ngày, trong 10-14 ngày; - Azithromycin 2g, uống liều duy nhất. |
Giang mai muộn (>2 năm hoặc không rõ thời gian mắc) |
Benzathin penicillin 2,4 triệu đơn vị, tiêm bắp sâu, 1 lần/ tuần trong 3 tuần liên tiếp, thời gian giữa 2 lần tiêm không quá 14 ngày |
Trong trường hợp không có benzathin penicillin, thay thế bằng phác đồ sau: - Procain penicillin 1,2 triệu đơn vị, tiêm bắp sâu, 1 lần/ngày, trong 20 ngày. Nếu không có procain penicillin hoặc bệnh nhân có tiền sử dị ứng với penicillin à lựa chọn phác đồ sau: - Doxycyclin 100mg, uống 2 lần/ ngày, trong 30 ngày |
3.2.2. Các trƣờng hợp đặc biệt
a) Phụ nữ có thai
a) Phụ nữ có thai
Phác đồ ưu tiên | Phác đồ thay thế | |
Giang mai sớm (≤2 năm) |
Benzathin penicillin 2,4 triệu đơn vị, tiêm bắp sâu, liều duy nhất |
Nếu không có benzathin penicillin, có thể thay bằng các phác đồ sau: - Procain penicillin 1,2 triệu đơn vị, tiêm bắp sâu, 1 lần/ngày, trong 10 ngày Nếu không có procain penicillin hoặc bệnh nhân có tiền sử dị ứng với penicillin à lựa chọn một trong các phác đồ sau: - Erythromycin 500mg, uống 4 lần/ ngày, trong 14 ngày - Ceftriaxon 1g, tiêm bắp sâu, 1 lần/ ngày, trong 10-14 ngày - Azithromycin 2g, uống liều duy nhất |
Giang mai muộn (> 2 năm hoặc không biết chính xác thời gian mắc) |
Benzathin penicillin 2,4 triệu đơn vị, tiêm bắp sâu, 1 lần/ tuần trong 3 tuần liên tiếp, thời gian giữa 2 lần tiêm không quá 14 ngày |
Nếu không có benzathin penicillin, có thể thay bằng các phác đồ sau: - Procain penicillin 1,2 triệu đơn vị, tiêm bắp sâu, 1 lần/ngày, trong 20 ngày. Nếu không có procain penicillin hoặc bệnh nhân có tiền sử dị ứng với penicillin à lựa chọn phác đồ sau: - Erythromycin 500mg, uống 4 lần/ ngày, trong 30 ngày |
Lưu ý:
- Erythromycin, azithromycin là những thuốc không đi qua nhau thai nên trẻ có mẹ giang mai mới sinh ra cần được điều trị ngay theo phác đồ dưới đây.
- Doxycyclin chống chỉ định cho phụ nữ mang thai vì có thể gây ra biến chứng bất lợi nghiêm trọng cho thai nhi.
b) Giang mai bẩm sinh
- Chỉ định điều trị:
+ Giang mai bẩm sinh được chẩn đoán xác định.
+ Trẻ sơ sinh không có biểu hiện lâm sàng, nhưng có mẹ bị giang mai chưa được điều trị hoặc điều trị chưa đầy đủ hoặc điều trị muộn (trong vòng 30 ngày trước khi sinh) hoặc điều trị với phác đồ không dùng penicillin, không theo hướng dẫn điều trị cho phụ nữ mang thai ở mục 3.2.2.
- Phác đồ điều trị: lựa chọn một trong các phác đồ sau
+ Benzyl penicillin 100.000 – 150.000 đơn vị/kg/ngày, tiêm tĩnh mạch chậm trong 10-15 ngày
+ Procain penicillin 50.000 đơn vị /kg/ngày, tiêm bắp 10-15 ngày.
Nên ưu tiên dùng phác đồ benzyl penicillin hơn phác đồ procain penicillin nếu có thể tiêm tĩnh mạch.
- Trẻ sơ sinh không có triệu chứng lâm sàng và mẹ đã được điều trị giang mai đầy đủ, không có dấu hiệu tái nhiễm, chỉ cần theo dõi chặt chẽ.
Nguy cơ lây truyền giang mai từ mẹ sang con phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm hiệu giá kháng thể xét nghiệm không đặc hiệu của mẹ (ví dụ: RPR), thời gian điều trị và giai đoạn bệnh của mẹ.
Nếu cần điều trị, sử dụng phác đồ:
Benzathin penicillin G 50.000 đơn vị/kg/ngày, tiêm bắp, liều duy nhất.
IV. PHÒNG BỆNH
- Xét nghiệm giang mai cho tất cả phụ nữ mang thai vào lần khám thai đầu tiên sử dụng test nhanh giang mai để phát hiện, điều trị sớm, ngăn ngừa lây truyền giang mai từ mẹ sang con.
- Truyền thông giáo dục cho cộng đồng, đặc biệt quần thể nguy cơ cao (gái mại dâm, nam quan hệ tình dục đồng giới) về nguyên nhân gây bệnh, đường lây, biến chứng, cách phòng bệnh, lợi ích của việc xét nghiệm và điều trị sớm.
- Thực hành tình dục an toàn.
- Tập huấn chuyên môn cho các bác sỹ đa khoa, bác sỹ chuyên khoa da liễu và sản phụ khoa ở các tuyến từ trung ương đến địa phương về chẩn đoán sớm, điều trị đúng và đủ bệnh giang mai, giảm tối đa giang mai bẩm sinh.
Chỉ những khách hàng đã đăng nhập và mua sản phẩm này mới có thể đưa ra đánh giá.
Danh mục:
Bệnh Nam-Nữ-Nội tiết
Từ khóa:
Bệnh Giang Mai
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.