BỆNH ALZHEIMER
Bệnh Alzheimer là nguyên nhân hàng đầu gây nên tình trạng sa sút trí tuệ, ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành vi của con người.
Không có cách nào để đảo ngược quá trình tiến triển bệnh, nhưng việc phát hiện và điều trị sớm có thể giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Bệnh Alzheimer là gì?
Alzheimer là một căn bệnh gây ra tình trạng mất trí nhớ, mất các chức năng nhận thức, làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sống và làm việc của người bệnh.
Đây không phải là sự lão hóa bình thường, vì vậy đừng nhầm lẫn Alzheimer với hiện tượng suy giảm trí nhớ thông thường ở người già.
Có một ngày bỗng thấy ông, bà, cha, mẹ,… càng có tuổi sẽ càng trở nên khó tính, dễ nổi cáu, hay hờn dỗi…
Điều đó có thể xuất phát từ tính cách trước nay vẫn vậy, nhưng cũng rất có thể họ đang bị hội chứng Alzheimer âm thầm tấn công…
Lịch sử phát hiện bệnh
Một trong những bí ẩn lớn của bệnh Alzheimer là tại sao bệnh lại chủ yếu tấn công người lớn tuổi.
Các nhà khoa học đang tìm hiểu những thay đổi liên quan đến tuổi tác trong não có thể gây hại cho các tế bào thần kinh và ảnh hưởng đến các loại tế bào não khác như thế nào để góp phần gây ra hiện tượng này.
Những thay đổi liên quan đến tuổi tác này bao gồm teo một số bộ phận của não, viêm, tổn thương mạch máu, sản xuất các gốc tự do và rối loạn chức năng ty thể.
Alzheimer được biết đến là nguyên nhân phổ biến của hội chứng sa sút trí tuệ.
Bệnh được đặt theo tên của bác sĩ tâm thần, tiến sĩ Alois Alzheimer người đầu tiên mô tả căn bệnh này.
Năm 1906, vị tiến sĩ này nhận thấy những thay đổi trong mô não của một phụ nữ đã chết vì một căn bệnh tâm thần bất thường.
Các triệu chứng của bệnh nhân đó bao gồm mất trí nhớ, các vấn đề về ngôn ngữ và hành vi không kiểm soát.
Sau khi bệnh nhân qua đời, ông đã kiểm tra não bộ và tìm thấy nhiều khối bất thường được gọi là mảng vón amyloid và các đám rối sợi thần kinh, hoặc đám rối “tau”.
Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới với 10,1 triệu người cao tuổi, chiếm 11% tổng dân số.
Lão hóa là quy luật của tự nhiên, tuổi thọ càng cao thì tiến trình lão hóa càng gần.
Alzheimer không phải là lão hóa thông thường.
Đó là một chứng bệnh khiến nhiều phần não dần dần bị teo đi, đặc biệt là hồi hải mã là nơi lưu giữ và tạo ký ức.
Theo thời gian, những người mắc bệnh Alzheimer mất trí nhớ và khả năng tập trung.
Việc định hướng theo không gian và thời gian ngày càng trở nên khó khăn, người bệnh cũng khó tự xoay sở trong cuộc sống hàng ngày.
Nguyên nhân
Não là bộ phận tiêu thụ tới 20% lượng oxy của toàn thân.
Theo ước tính mỗi khi chúng ta căng thẳng, não phải dùng tới 50% oxy cơ thể.
Bộ não có 100 tỷ tế bào thần kinh hay còn gọi là neuron.
Mỗi tế bào thần kinh kết nối với nhiều tế bào khác để tạo thành mạng lưới liên lạc.
Các nhóm tế bào thần kinh thực hiện các vai trò khác nhau.
Một số tham gia vào việc suy nghĩ, học hỏi và ghi nhớ, những số khác giúp chúng ta nhìn, nghe và ngửi.
Vì vậy, bộ não được xem là kho lưu giữ ký ức và cảm xúc tuyệt vời, chỉ một mùi hương đã có thể khiến nhớ đến một người, một giai điệu quen đã nhớ tới những không gian của buổi hẹn hò từ nhiều năm trước.
Đó là các tế bào não đã mò vào tận kho ký ức, khơi lại những gì bạn từng nghe, thấy… rồi so sánh, đối chiếu với hiện tại.
Như mọi tế bào khác, để duy trì sự sống các tế bào thần kinh cũng cần cung cấp nguồn dinh dưỡng.
Chất dinh dưỡng đi khắp neuron nhờ một mạng lưới các ống nhỏ li ti như ống hút.
Trong thành phần tạo nên các ống ấy có một chất tên là “tau”.
Đối với bệnh nhân bị Alzheimer, các sợi tau phát triển bất thường khiến các ống nhỏ vận chuyển dinh dưỡng cũng bị ảnh hưởng không vận chuyển được chất dinh dưỡng nữa.
Khi bị thiếu chất, khung của tế bào sụp đổ, sợi trục không dẫn được tín hiệu, kèm theo nhiều tế bào bị tiêu biến, quá trình như vậy khiến nhiều tế bào chết vón lại với nhau thành các đám rối.
Trong các nghiên cứu hay khám nghiệm ở bộ não của bệnh nhân, người ta phát hiện có rất nhiều những đám rối như thế.
Bên cạnh đám rối tau, các nhà khoa học còn thấy trong não người Alzheimer có các mảng vón.
Chúng là chất amyloid β bình thường ở trong bao mỡ màng của tế bào não, nay bong ra và vón lại, nằm len lỏi và tạo ra một bức tường để ngáng giữa các tế bào, điều này dẫn đến việc ách tắc dẫn chuyển tín hiệu của các tế bào.
Lâu dần, các tế bào không nhận được thông tin trở nên bất hoạt, thông tin mới không nhận được, thông tin cũ không thể truy cập, dần dần gây nên hiện tượng quên.
Cuối cùng, các mảng vón và đám rối lan rộng khắp não và mô não co lại đáng kể.
Những người mắc bệnh nặng không thể giao tiếp và hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc của người khác.
Giai đoạn cuối, người bệnh có thể nằm trên giường hầu hết hoặc toàn bộ thời gian khi cơ thể ngừng hoạt động.
Ai là đối tượng dễ mắc bệnh?
Nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer tăng lên theo tuổi tác, bắt đầu từ khoảng 65 tuổi.
Nhiều nghiên cứu đã xem xét liệu các hoàn cảnh sống, bệnh tật hoặc hành vi cụ thể có thể làm tăng hoặc giảm nguy cơ mắc bệnh hay không.
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng các yếu tố sau có khả năng thúc đẩy bệnh phát triển:
Bệnh tiểu đường;
Stress, căng thẳng và phiền muộn kéo dài;
Cholesterol cao;
Hút thuốc;
Ít giao tiếp xã hội.
Triệu chứng thường gặp của hội chứng Alzheimer
Bộ não được tạo thành từ hơn 100 tỷ tế bào thần kinh – nhiều hơn cả các ngôi sao trong dải ngân hà.
Chứng mất trí nhớ làm tổn thương các tế bào thần kinh khiến không còn khả năng giao tiếp hiệu quả và điều này ảnh hưởng đến cách cơ thể hoạt động.
Các triệu chứng có thể bao gồm:
1. Sa sút trí nhớ và khả năng nhận thức
Hầu hết trí nhớ và các khả năng nhận thức khác của mọi người dần trở nên kém đi khi về già.
Lúc này cơ thể không còn có thể phản ứng nhanh và linh hoạt với các tình huống, đây được xem là một phần tự nhiên của quá trình lão hóa.
Việc nhận ra và giải quyết các vấn đề phát sinh thường khó khăn hơn nhưng họ vẫn có thể tiếp cận với những kiến thức đã tiếp thu được trong nhiều năm và luôn có định hướng, độc lập và có thể đưa ra những phán đoán đúng đắn.
Điều này khác với những người bị bệnh Alzheimer.
Một trong những dấu hiệu phổ biến nhất của bệnh, đặc biệt ở giai đoạn đầu, là người bệnh không nhớ các thông tin đã biết gần đây, trí nhớ ngắn hạn bị ảnh hưởng nhiều hơn.
Điều này có nghĩa là người bệnh quên đi những sự kiện vừa xảy ra, nhưng vẫn có thể nhớ lại những trải nghiệm từ lâu.
Nhưng trí nhớ dài hạn cũng mất dần theo thời gian.
Khả năng tập trung cũng bị ảnh hưởng, khiến việc duy trì định hướng theo thời gian và không gian ngày càng khó khăn hơn.
Việc liên kết những điều đã học trong quá khứ với các tình huống hoặc ấn tượng mới trở nên khó khăn hơn.
Sẽ đến lúc không còn có thể hiểu bối cảnh hoặc đánh giá thông tin, hình thành ý kiến và sau đó quyết định phải làm gì.
Ví dụ, một bệnh nhân ở giai đoạn cuối có thể thấy bên ngoài trời đang mưa và có thể diễn đạt điều này bằng lời.
Nhưng họ sẽ không thể đưa ra kết luận cho hành động của chính mình.
Sau đó, họ có thể ra ngoài mua sắm bằng một chiếc áo thun thay vì mua áo mưa hoặc ô.
2. Khó khăn diễn đạt bằng ngôn ngữ
Người bệnh Alzheimer có thể gặp khó khăn khi theo dõi hay tham gia một cuộc trò chuyện.
Họ có thể dừng lại khi đang trò chuyện và không có ý tưởng để làm sao tiếp tục cuộc trò chuyện hoặc có thể lặp lại những câu chuyện trước đó đã nói.
Khi triệu chứng của bệnh tiến triển, việc nhớ đúng các từ trở nên khó khăn hơn và thay vào đó người bệnh sử dụng các từ hoặc cụm từ không phù hợp với ngữ cảnh.
Điều này khiến người khác khó hiểu họ.
Và những người bị sa sút trí tuệ cũng quên nghĩa của từ và sau đó thường không còn có thể theo dõi các cuộc trò chuyện.
Điều này khiến việc giao tiếp bằng lời nói của họ ngày càng khó hơn.
3. Thay đổi hành vi, tâm trạng, tính cách
Nhiều bệnh nhân phải trải qua những thay đổi đáng chú ý trong hành vi.
Tâm trạng và tính cách của người bệnh có thể thay đổi.
Họ có thể trở nên bối rối, nghi ngờ, chán nản, sợ hãi hay lo lắng.
Họ có thể dễ dàng nổi nóng ở nhà, tại nơi làm việc, khi ở với bạn bè hoặc ở những nơi mà họ cảm thấy không thoải mái.
Người bệnh có thể bắt đầu từ bỏ các sở thích, các hoạt động xã hội, các dự án công việc hay các môn thể thao.
Người bệnh cũng có thể ngại giao tiếp xã hội do các thay đổi mà họ gặp phải.
Đôi khi họ cảm thấy mệt mỏi vì công việc, gia đình và trách nhiệm xã hội.
Một số người có thể cảm nhận các thay đổi về khả năng phát triển và thực hiện kế hoạch hay làm việc với các con số.
Vì vậy những việc được xem là quen thuộc khi trước sẽ dần trở nên khó khăn và xa lạ hơn với người bệnh.
Ví dụ như không thể lái xe đến một địa điểm dù trước đó đã đi rất nhiều lần, không thể tính được hóa đơn hay là gặp khó khăn trong việc đọc hiểu, không biết sử dụng các đồ vật trong gia đình…
4. Nhầm lẫn thời gian hoặc địa điểm
Người bệnh Alzheimer có thể quên mất ngày tháng, mùa và sự chuyển biến thời gian.
Ví dụ đang đứng ở một địa điểm nhưng họ không nhớ làm sao mình đến đây, mình đến đây để làm gì, bên cạnh đó, người bệnh cũng gặp nhiều khó khăn trong việc cố hiểu một sự kiện xảy ra tức thời, ngay lúc đó.
5. Đặt đồ vật sai vị trí và không thể nhớ lại mình đã từng làm gì
Bệnh nhân có thể đặt đồ vật ở những nơi khác lạ.
Họ có thể làm mất đồ vật và không thể nhớ để tìm lại các đồ vật đó.
Vì vậy mà không ít trường hợp người bệnh cho rằng ai đó đã ăn cắp đồ của mình, và việc này sẽ xảy ra với tần suất nhiều hơn trong tương lai.
Các biến chứng
Mất trí nhớ và ngôn ngữ, suy giảm khả năng phán đoán và những thay đổi nhận thức khác do hội chứng này gây ra có thể gây khó khăn trong việc điều trị các bệnh lý khác.
Một bệnh nhân Alzheimer có thể:
Không thông báo với người khác rằng họ đang bị đau, ví dụ như đau răng, đau tay…
Không thể tuân thủ liệu trình điều trị,
Không thông báo hoặc mô tả tác dụng phụ của thuốc
Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn cuối, những thay đổi của não bắt đầu ảnh hưởng đến các chức năng thể chất, chẳng hạn như nuốt, kiểm soát hành vi…
Hầu hết bệnh nhân Alzheimer không tử vong do bệnh chính mà thường do các bệnh kèm theo như:
Viêm phổi:
Đây là tình trạng phổi bị phù nề, nhiễm trùng do việc hít phải các chất nhầy từ dịch dạ dày, hay từ thức ăn… vào phổi hoặc đường hô hấp.
Nhiễm trùng:
Bệnh nhân thường đi tiểu không tự chủ nên phải đặt thông tiểu, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng đường niệu, nếu không được điều trị sẽ càng nặng hơn, có thể đe dọa tính mạng.
Bị ngã và gặp chấn thương:
Bệnh nhân thường sẽ khó để định hướng khoảng cách vì vậy nguy cơ bị ngã khi di chuyển và vận động tăng lên.
Điều này dẫn đến các trường hợp có thể gãy xương, gặp chấn thương vùng đầu, cổ nặng có thể dẫn đến tình trạng xuất huyết, tụ máu… trường hợp nặng cần lưu viện để phẫu thuật và chăm sóc nội trú.
Phương pháp chẩn đoán
Chưa thể chẩn đoán hoàn toàn bệnh Alzheimer bằng các xét nghiệm hiện có trong khi người đó vẫn còn sống.
Căn bệnh này được chẩn đoán nếu ai đó có các triệu chứng điển hình và không tìm thấy nguyên nhân nào khác.
Đánh giá hình ảnh não bằng các kỹ thuật như chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) không đủ để biết ai đó có mắc bệnh hay không.
Vì các triệu chứng như hay quên, thay đổi hành vi và các vấn đề với định hướng có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên điều quan trọng là không nên vội vàng đi đến kết luận việc có mắc bệnh hay không.
Các triệu chứng cũng có thể do trầm cảm hoặc các tình trạng thể chất khác như viêm màng não, đột quỵ hoặc chảy máu não.
Sự thiếu hụt vitamin và khoáng chất, hoặc tác dụng phụ của thuốc đôi khi cũng có thể gây ra các triệu chứng như thế này.
Một số phương pháp điều trị có thể giúp giảm nhẹ các triệu chứng, cải thiện dần và mất hẳn.
Hiện tượng Alzheimer chỉ được chẩn đoán nếu các triệu chứng đã kéo dài hơn 6 tháng và bất kỳ nguyên nhân nào khác được coi là khó xảy ra.
Vì vậy việc khám tổng quát và làm các kiểm tra cận lâm sàng là cần thiết, nếu lo lắng có triệu chứng của bệnh, hãy đến gặp và tìm sự tư vấn từ bác sĩ chuyên khoa về thần kinh.
Điều này sẽ hữu ích trong việc chẩn đoán, điều trị và phát hiện bệnh, đặc biệt là khi bệnh vẫn còn ở giai đoạn đầu.
Các phương án tầm soát để phát hiện sự suy giảm chức năng nhận thức như:
MMSE, Mini-Cog và MoCA cũng thường được sử dụng.
Thang điểm MMSE có điểm cắt chẩn đoán sa sút trí tuệ là 26.
Ngoài biểu hiện lâm sàng, có thể chẩn đoán giai đoạn bệnh theo thang điểm MMSE (theo NICE 2011):
Bệnh Alzheimer nhẹ: MMSE 21 – 26
Bệnh Alzheimer trung bình: MMSE 10 – 20
Bệnh Alzheimer trung bình nặng: MMSE 10 – 14
Bệnh Alzheimer nặng: MMSE dưới 10
Các bài test đánh giá chuyên biệt thường được sử dụng để xác định chi tiết từng chức năng nhận thức như trí nhớ, ngôn ngữ, chức năng điều hành, thị giác cấu trúc, chú ý tập trung.
Đánh giá hoạt động sống hàng ngày:
Các chuyên gia thường sử dụng các thang đánh giá hoạt động sống cơ bản (ADL- Activity of Daily Living) và nâng cao (IADL- Instrumental Activity of Daily Living) để kiểm tra sự ảnh hưởng chức năng nhận thức lên hoạt động hàng ngày.
Đánh giá hành vi tâm thần:
Hơn 80% bệnh nhân có biểu hiện rối loạn hành vi tâm thần như trầm cảm, ảo giác, hoang tưởng, lãnh đạm, kích động.
Biện pháp điều trị
Bệnh Alzheimer không có thuốc điều trị nhưng nếu bệnh nhân sống giữa sự cảm thông thì diễn tiến bệnh sẽ chậm hơn hoặc ít ra người bệnh sẽ không tủi thân vì sự vô cảm của những người thương yêu.
Sự cô đơn, cảm giác tủi thân là điều mà người bệnh sợ nhất, họ có thể hờn dỗi, ngồi một chỗ không để ý đến con cháu dù không có chuyện gì xảy ra.
Điều họ cần là sự chăm sóc và những mối quan hệ yêu thương chân thành từ người thân và người xung quanh.
Đây là một căn bệnh rất phức tạp và không thể điều trị khỏi hoàn toàn bằng việc dùng thuốc hoặc biện pháp can thiệp nào khác.
Những cách tiếp cận hiện tại tập trung vào việc giúp mọi người duy trì chức năng tâm thần, quản lý các triệu chứng hành vi và làm chậm một số vấn đề, chẳng hạn như mất trí nhớ.
Các nhà nghiên cứu nỗ lực phát triển các liệu pháp nhắm vào các cơ chế di truyền, phân tử và tế bào cụ thể để có thể ngăn chặn nguyên nhân cơ bản gây bệnh.
1. Thuốc duy trì chức năng tâm thần
Những loại thuốc sử dụng điều trị bệnh Alzheimer mức độ trung bình đến nặng hoạt động bằng cách điều chỉnh chất dẫn truyền thần kinh, các chất hóa học truyền thông điệp giữa các tế bào thần kinh giúp giảm các triệu chứng và giải quyết một số vấn đề về hành vi.
Những loại thuốc này có thể cho hiệu quả đối với một số người nhưng không phải tất cả mọi người và có thể chỉ hữu ích trong một thời gian giới hạn.
2. Thuốc kiểm soát hành vi
Các triệu chứng hành vi phổ biến của bệnh Alzheimer bao gồm mất ngủ, đi lang thang, kích động, lo lắng và trở nên nóng tính, hung dữ.
Các nhà khoa học đang tìm hiểu lý do tại sao các triệu chứng này xảy ra và đang nghiên cứu các phương pháp điều trị mới bao gồm cả dùng thuốc và không dùng thuốc để kiểm soát bệnh.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, điều trị các triệu chứng hành vi có thể làm cho những người mắc bệnh thoải mái hơn và giúp người chăm sóc cảm thấy nhẹ nhàng hơn.
3. Kích thích từ trường xuyên sọ (TMS)
Là kỹ thuật dùng xung từ trường ngắn hạn tác động lên một vùng cụ thể của não từ bên ngoài hộp sọ, từ đó “thiết lập cân bằng” não bộ.
Phương pháp kích thích từ trường xuyên sọ được áp dụng điều trị bệnh Alzheimer và các bệnh tâm thần kinh khác, giúp người bệnh cải thiện trạng thái tinh thần, chức năng nhận thức, các hoạt động thường ngày…
Hiệu quả kéo dài khoảng 3 tháng sau một liệu trình hoặc lâu hơn, tùy vào thể trạng và cách chăm sóc người bệnh.
4. Nghiên cứu thử nghiệm phương pháp điều trị mới
Nghiên cứu về bệnh Alzheimer đã phát triển đến mức các nhà khoa học đang tìm cách để trì hoãn hoặc ngăn ngừa căn bệnh này cũng như điều trị các triệu chứng của nó.
Trong các thử nghiệm lâm sàng đang diễn ra do NIA hỗ trợ, các nhà khoa học đang phát triển và thử nghiệm một số biện pháp can thiệp khả thi.
Một số nghiên cứu về các liệu pháp điều trị bằng thuốc nhằm vào nhiều mục tiêu khác nhau, bao gồm protein beta-amyloid, chức năng mạch máu não, mất khớp thần kinh và các chất dẫn truyền thần kinh cụ thể, cũng như các can thiệp chẳng hạn như hoạt động thể chất, chế độ ăn uống, rèn luyện nhận thức và sự kết hợp của những các phương pháp tiếp cận.
Chăm sóc bệnh nhân
Để chăm sóc tốt cho người bệnh Alzheimer, người nhà cần hiểu rõ từng giai đoạn của bệnh.
Giai đoạn nhẹ
Ở giai đoạn đầu, mọi người gặp khó khăn hơn một chút trong việc tự quản lý cuộc sống của mình, nhưng họ thường vẫn có thể sống độc lập.
Thông thường rất khó để phân biệt giữa các triệu chứng ở giai đoạn đầu và chứng hay quên bình thường do lão hóa.
Không có khoảng cách giới hạn rõ ràng giữa các vấn đề bình thường liên quan đến lão hóa và bệnh Alzheimer nhẹ.
Những bệnh nhân ở giai đoạn đầu hầu như luôn cần được giúp đỡ trong các vấn đề kinh doanh và tài chính hoặc các cuộc hẹn chính thức.
Lái xe và uống thuốc thường xuyên là hai lĩnh vực quan trọng khác.
Hành vi và tâm trạng có thể thay đổi khi mắc bệnh Alzheimer giai đoạn đầu.
Bệnh có thể gây ra những cảm xúc tiêu cực như:
Sợ hãi, căng thẳng, tức giận, hoặc thậm chí cảm giác xấu hổ.
Một số người cảm thấy chán nản hoặc cáu kỉnh, hoặc họ có thể có tâm trạng thất thường.
Ở giai đoạn này người nhà và cả bệnh nhân hãy dành thời gian để tìm hiểu bệnh.
Sẽ rất khó khăn khi bị chẩn đoán đang mắc bệnh và vai trò của người chăm sóc là hãy hỗ trợ thông qua những cuộc nói chuyện, tư vấn một cách tình cảm và nhẹ nhàng.
Lúc này người bệnh cũng khó để hoàn thành các công việc sinh hoạt bình thường như lái xe, nấu nướng… vì vậy hãy ở bên và thay họ đảm nhận vị trí này.
Giai đoạn trung bình
Những người mắc bệnh Alzheimer giai đoạn này thường không thể tự lập.
Họ vẫn có thể tự ăn, uống và tắm rửa, và có thể làm những công việc đơn giản xung quanh nhà hoặc vườn, nhưng có thể phải được nhắc nhở và yêu cầu làm như vậy.
Chỉ có thể nấu ăn, mua sắm, giữ nhà sạch sẽ và đi dạo khi có sự giúp đỡ của người khác.
Họ dễ bị lạc, không tìm được đường trở về nhà, để bếp và gây nguy hiểm cho bản thân hoặc người khác.
Các kiểu hành vi như đi tới đi lui, lục lọi trong ngăn kéo và loay hoay mua quần áo một cách vô thức trở nên thường xuyên hơn.
Những cơn tức giận, nghi ngờ thậm chí là hành vi hung hăng với người khác cũng là hậu quả của các vấn đề liên quan đến bệnh Alzheimer ảnh hưởng đến nhận thức của người bệnh và hạn chế khả năng của họ.
Giai đoạn này, người bệnh trở nên khó khăn hơn khi diễn đạt mọi thứ bằng lời và hiểu những gì người khác nói.
Họ cũng nhầm lẫn quá khứ với hiện tại.
Ở giai đoạn này, sẽ cần dành toàn bộ thời gian để chăm sóc người bệnh.
Vì vậy cảm giác của người chăm sóc cũng sẽ khá nhạy cảm.
Đừng để sự căng thẳng làm ảnh hưởng tiêu cực, hãy chắc chắn mình có một nền tảng sức khỏe và tâm lý tốt trước khi chăm sóc một bệnh nhân.
Giai đoạn nặng
Ở giai đoạn này, bệnh đã trở nặng và người bệnh cần sự giúp đỡ liên tục từ người khác.
Các vấn đề về lời nói và ngôn ngữ có thể bắt đầu khiến cuộc trò chuyện gần như không thể thực hiện được.
Thậm chí cần được giúp đỡ để hoàn thành các hoạt động đơn giản hàng ngày như ăn uống.
Người bệnh thường xuyên có cảm thấy bồn chồn, ảo giác,nhầm lẫn quá khứ với hiện tại.
Họ không còn nhận ra những người mà họ từng biết rất rõ.
Việc kiểm soát các chức năng cơ thể và khả năng phối hợp vận động cũng có thể bị hạn chế.
Giai đoạn này, việc chăm sóc tại nhà có thể không đủ đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe với bệnh nhân,
Những người chăm sóc có thể cân nhắc việc chăm sóc người bệnh kế hợp các dịch vụ chăm sóc chuyên nghiệp ở cơ sở điều dưỡng chuyên môn hoặc cơ sở chăm sóc bệnh sa sút trí tuệ, nơi có thể giám sát và quản lý đầy đủ.
Cách phòng tránh
Bệnh Alzheimer xảy ra do tiến trình lão hóa não bộ theo thời gian và tuổi tác.
Bệnh có thể đến sớm hay muộn, mức độ trầm trọng hay giảm nhẹ là do lối sống và sinh hoạt.
Phòng ngừa bệnh đến sớm và kiểm soát biến chứng nguy hiểm như:
1. Phòng ngừa các bệnh tim mạch
Theo nghiên cứu, 80% người bị Alzheimer có các vấn đề liên quan đến bệnh tim mạch.
Không chỉ vậy, ở một số người, não bộ xuất hiện những mảng vón và đám rối đặc trưng nhưng lại không có biểu hiện của Alzheimer.
Để giải thích cho vấn đề này, theo chuyên gia, các mảng vón và đám rối ấy chỉ phát tác khi hệ mạch máu não cũng có vấn đề.
Tức bệnh về tim mạch là yếu tố quan trọng làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Những người bị tăng huyết áp, đái tháo đường (tiểu đường), rối loạn lipid máu (mỡ máu cao) cần khống chế ngay các rối loạn này, vì lâu dài sẽ dẫn đến bệnh tim mạch.
2. Thường xuyên tập thể dục
Với người bệnh Alzheimer, việc tập thể dục có thể giúp trì hoãn các triệu chứng.
Việc vận động cần theo phác đồ của chuyên gia để có thể khiến máu và oxy dồi dào lên nuôi dưỡng não.
3. Tránh gặp các chấn thương vùng đầu
Khảo sát cho thấy có một mối liên hệ rõ ràng giữa chấn thương đầu nặng với khả năng mắc Alzheimer về sau, đặc biệt là các chấn thương dẫn tới bất tỉnh.
Bảo vệ vùng đầu và tránh những chấn thương không đáng có.
4. Ăn uống khoa học
Một thực đơn cân bằng nhóm chất dinh dưỡng gồm nhiều rau và trái cây tươi, ngũ cốc nguyên hạt, dầu oliu, đậu phộng, cá, gà, trứng, các chế phẩm từ sữa… giúp tăng cường sức khỏe não bộ.
Lưu ý hạn chế ăn các loại thịt đỏ và đường.
5. Ngủ đúng giờ, đủ giấc và ngủ có chất lượng
Giấc ngủ tốt có thể giúp ngăn Alzheimer đến sớm và tiến triển trầm trọng.
Trong lúc ngủ, não bộ sẽ tiến hành “vệ sinh” các synapse để việc truyền tin được thông thoáng, lọc bỏ những ký ức không cần thiết, và dọn bớt amyloid β để không tạo mảng vón. Ngủ 8 tiếng mỗi đêm mà không dùng thuốc là việc lý tưởng…
Câu hỏi thường gặp
1. Bệnh Alzheimer sống được bao lâu?
Việc chăm sóc bệnh nhân mắc Alzheimer giai đoạn nặng thường gặp rất nhiều khó khăn. Bệnh Alzheimer là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ 6 trên mọi lứa tuổi ở Hoa Kỳ và đứng thứ 5 đối với những người 65 tuổi trở lên.
Mắc Alzheimer sống được bao lâu là điều mà nhiều người thắc mắc, theo thống kê tuổi thọ của mỗi bệnh nhân là khác nhau.
Tuổi thọ trung bình sau khi chẩn đoán là 8 đến 10 năm.
Một số trường hợp, nó có thể ngắn hoặc kéo dài hơn.
Mỗi người có một tiền sử sức khỏe riêng.
Lịch sử sức khỏe này liên quan trực tiếp đến việc bệnh sẽ ảnh hưởng đến họ như thế nào.
2. Bệnh có di truyền không?
Hầu hết những bệnh nhân đều có dạng khởi phát muộn của bệnh, trong đó các triệu chứng trở nên rõ ràng vào giữa những năm 60 tuổi.
Ngược lại bệnh Alzheimer khởi phát sớm rất hiếm, chiếm dưới 10% tổng số người mắc.
Bệnh thường xảy ra ở độ tuổi 30 và giữa 60.
Một số trường hợp là do sự thay đổi di truyền ở một trong ba gen.
Ba đột biến gen đơn liên quan đến bệnh Alzheimer khởi phát sớm là:
Protein tiền thân amyloid (APP) trên nhiễm sắc thể 21
Presenilin 1 (PSEN1) trên nhiễm sắc thể 14
Presenilin 2 (PSEN2) trên nhiễm sắc thể 1
Các đột biến trong các gen này dẫn đến việc sản xuất các protein bất thường có liên quan đến bệnh.
Mỗi đột biến này đều đóng một vai trò khác nhau trong việc phá vỡ APP, một loại protein mà chức năng chính xác của nó vẫn chưa được hiểu đầy đủ.
Sự phân hủy này là một phần của quá trình tạo ra các dạng mảng amyloid có hại đây được xem là một dấu hiệu của hiện tượng Alzheimer.
Một đứa trẻ có cha hoặc mẹ ruột mang đột biến gen một trong ba gen này có 50/50 cơ hội thừa hưởng đột biến đó.
Nếu đột biến trên thực tế là do di truyền, đứa trẻ có khả năng rất cao mắc bệnh Alzheimer khởi phát sớm.
Đối với các trường hợp bệnh khởi phát sớm khác, nghiên cứu đã chỉ ra rằng các thành phần di truyền khác có liên quan.
Các nghiên cứu đang được tiến hành để xác định các biến thể nguy cơ di truyền bổ sung.
Mắc hội chứng Down làm tăng nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer giai đoạn đầu.
Nhiều người mắc hội chứng Down phát triển bệnh khi lớn tuổi, với các triệu chứng xuất hiện ở độ tuổi 50 hoặc 60.
Các nhà nghiên cứu tin rằng điều này là do những người mắc hội chứng Down được sinh ra với một bản sao bổ sung của nhiễm sắc thể số 21, mang gen APP.
3. Bệnh có xuất hiện ở giới trẻ không?
Bệnh Alzheimer khởi phát sớm rất hiếm, chiếm dưới 10% tổng số người mắc bệnh Alzheimer.
Thường xảy ra ở độ tuổi 30 và giữa 60 của một người.
Một số trường hợp là do sự thay đổi di truyền gen.
TIP
NGUỒN GỐC BỆNH ALZHEIMER
Alzheimer được hiểu là bệnh mất trí nhớ phổ biến ở người già.
Nguồn gốc bệnh Alzheimer xuất phát từ việc các tế bào não chịu trách nhiệm về trí nhớ và một số chức năng khác bắt đầu chết đi.
1. Bệnh alzheimer là gì?
Là một bệnh lý về não không hồi phục, dần dần phá hủy trí nhớ, khả năng ngôn ngữ và năng lực tư duy, cuối cùng, bệnh nhân không thể hoàn thành ngay cả những công việc nhỏ nhất.
Bệnh thường tiến triển chậm, bắt đầu với biểu hiện đãng trí nhẹ thoáng qua.
Khi đã đến giai đoạn cuối, bệnh nhân thường bị tổn thương não trầm trọng.
Đây là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở người cao tuổi.
Trung bình người bệnh alzheimer chỉ có thể sống được trong khoảng từ 8 - 10 năm kể từ thời điểm mắc bệnh.
Vẫn có trường hợp sống lâu hơn nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng cách.
Diễn tiến của Alzheimer nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào mỗi người.
Mặc dù nguồn gốc bệnh Alzheimer có thể không do yếu tố di truyền và chưa được biết đến, nhưng nguy cơ mắc thường cao hơn nếu trong gia đình đã có thành viên mắc bệnh.
Nguy cơ này tăng gấp đôi mỗi 5 năm từ sau 65 tuổi.
2. Nguồn gốc bệnh Alzheimer
Bệnh Alzheimer được đặt theo tên của Tiến sĩ Alois Alzheimer. Năm 1906, bác sĩ Alzheimer nhận thấy những thay đổi bất thường trong mô não của một người phụ nữ đã tử vong vì một căn bệnh nào đó liên quan đến tâm thần.
Những triệu chứng của bệnh nhân bao gồm mất trí nhớ, rối loạn khả năng ngôn ngữ và hành vi không thể đoán trước.
Sau khi người phụ nữ qua đời, vị bác sĩ đã kiểm tra não của cô và tìm thấy nhiều khối bất thường (sau này được gọi là mảng amyloid) và các bó sợi rối (sau này được gọi là neurofibrillary, hoặc “đám rối”).
Sự hình thành của những mảng amyloid và đám rối trong não hiện nay vẫn được xem là một trong những đặc điểm chính và là nguồn gốc của bệnh Alzheimer.
Một tình trạng khác được quan sát thấy ở bệnh nhân là sự mất kết nối giữa các tế bào thần kinh (nơron) trong não.
Các tế bào thần kinh vốn là bộ phận giúp truyền thông điệp giữa các phần khác nhau của não và từ não đến các cơ quan trong cơ thể.
Trước những phát hiện của bác sĩ Alzheimer, các nhà khoa học tiếp tục làm sáng tỏ những thay đổi phức tạp trong não liên quan đến sự khởi phát và tiến triển của bệnh Alzheimer.
Sau đó, các chuyên gia cho rằng, dường như những thay đổi trong não đã xảy ra từ một thập kỷ trước khi tình trạng mất trí nhớ và các vấn đề về nhận thức khác xuất hiện.
Trên thực tế, trong giai đoạn tiền lâm sàng của bệnh Alzheimer, người bệnh hầu như không biểu hiện bất kỳ triệu chứng gì, song những thay đổi bất thường đã và đang diễn ra ngay bên trong não của bệnh nhân.
Những mảng amyloid và đám rối dần được hình thành.
Ngược lại, các tế bào thần kinh khỏe mạnh một khi ngừng hoạt động, sẽ mất kết nối với các tế bào thần kinh khác và chết đi.
Ngoài ra, có rất nhiều thay đổi phức tạp khác trong não cũng được cho là nguồn gốc gây ra bệnh Alzheimer.
Tổn thương ban đầu dường như chỉ diễn ra ở vùng hồi hải mã và vỏ não - hai bộ phận cần thiết trong việc lưu giữ ký ức.
Khi nhiều tế bào thần kinh chết đi, phần còn lại của não cũng bị ảnh hưởng, chúng bắt đầu giảm hoạt động và co lại.
Đến giai đoạn cuối của bệnh Alzheimer, tổn thương não đã lan đi rất rộng và toàn bộ mô não bị thu hẹp đáng kể.
3. Các mốc lịch sử tìm ra bệnh Alzheimer
3.1. Bệnh Alzheimer được mô tả lần đầu
Tiến sĩ Alois Alzheimer là người đầu tiên mô tả các triệu chứng của một bệnh nhân được cho là mắc một dạng rối loạn trí não vào năm 1906.
Bác sĩ tâm thần Emil Kraepelin, đồng nghiệp của Tiến sĩ Alzheimer, đã đặt cho căn bệnh này cái tên Alzheimer trong một cuốn sách y khoa năm 1910.
3.2. NIA được thành lập
Quốc hội Hoa Kỳ đã thành lập Viện nghiên cứu lão hóa (National Institute on Aging - NIA) như một phần của Viện Y tế Quốc gia (NIH) vào năm 1974.
Nhiệm vụ của NIA là hiểu rõ hơn về bản chất của lão hóa và tìm cách cải thiện chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi.
NIA cũng là nguồn của chính phủ liên bang để tài trợ cho nghiên cứu về nguồn gốc bệnh Alzheimer.
3.3. Nhận thức cộng đồng về bệnh Alzheimer
Trong một bài xã luận năm 1976, nhà thần kinh học - Tiến sĩ Robert Katzman tuyên bố rằng bệnh Alzheimer là dạng sa sút trí tuệ phổ biến nhất và là một thách thức đáng kể đối với sức khỏe cộng đồng.
Sự kiện này giúp cộng đồng có được nhận thức ban đầu về căn bệnh này, đồng thời cũng khởi động nhiều dự án nghiên cứu liên quan đến não thông qua NIA.
3.4. Hiệp hội Alzheimer được thành lập
Jerome Stone và các thành viên khác trong các nhóm hỗ trợ các gia đình có bệnh nhân Alzheimer đã đến NIA để thành lập Hiệp hội Alzheimer vào năm 1980.
Stone trở thành chủ tịch đầu tiên của hiệp hội, với mục tiêu chung là:
Cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các gia đình bị ảnh hưởng của bệnh Alzheimer;
Thúc đẩy nhiều dự án nghiên cứu hơn về căn bệnh này.
3.5. Căn nguyên gây tổn thương não được xác định
Những dấu hiệu chính của bệnh Alzheimer bên trong não là do sự hình thành một lượng lớn hai loại protein là:
Beta-amyloid và neurofibrillary.
Beta-amyloid được phát hiện vào năm 1984.
Hai năm sau, neurofibrillary được phát hiện trong não của những người bị Alzheimer.
Cả hai loại protein này đều có khả năng gây tổn thương tế bào não.
3.6. Thử nghiệm đầu tiên về thuốc điều trị Alzheimer
Năm 1978, NIA và Hiệp hội Alzheimer đã hợp tác với công ty Dược phẩm Warner - Lambert (sau này là Pfizer) để bắt đầu đợt thử nghiệm lâm sàng đầu tiên về một loại thuốc có tác dụng điều trị các triệu chứng của bệnh Alzheimer.
Năm 1993, cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chính thức phê duyệt thuốc tacrine vào trong điều trị Alzheimer.
Sau đó, 4 loại thuốc trị Alzheimer khác đã được phê duyệt trong thập kỷ tiếp theo.
3.7. Reagan được chẩn đoán mắc Alzheimer
Cựu Tổng thống Ronald Reagan thông báo rằng ông đã mắc bệnh Alzheimer vào ngày 5 tháng 11 năm 1994. Khi đó ông đã 83 tuổi.
Thời điểm đó, Reagan là người nổi tiếng đầu tiên mắc bệnh.
Thông báo của ông đã thu hút sự chú ý của công chúng đến bệnh Alzheimer.
Reagan mất năm 2004 vì viêm phổi và biến chứng của Alzheimer.
Nhiều chuyên gia bắt đầu cân nhắc về sự khác biệt giữa chứng mất trí thông thường liên quan đến tuổi tác và bệnh Alzheimer.
3.8. Nghiên cứu về mối liên quan của di truyền đến nguy cơ mắc bệnh
Năm 2003, Hiệp hội Alzheimer và NIA bắt đầu cho triển khai nghiên cứu xem liệu nguy cơ mắc bệnh Alzheimer có liên quan đến yếu tố di truyền hay không.
Chính phủ liên bang đã tài trợ cho nghiên cứu này.
3.9. Đạo luật NAPA được ký kết
Năm 2011, Tổng thống Obama đã ký kết thông qua Đạo luật NAPA (National Alzheimer’s Project Act).
NAPA là đạo luật đầu tiên phác thảo một chiến lược mang tầm cỡ quốc gia về nghiên cứu và chăm sóc cho những người mắc Alzheimer.
Đạo luật này cũng đề cập đến việc hỗ trợ cho những người chăm sóc bệnh nhân.
Một năm sau, National Alzheimer’s Plan được công bố, với mục tiêu tìm ra các phương pháp phòng ngừa Alzheimer vào năm 2025.
4. Nhận biết dấu hiệu và triệu chứng ban đầu của Alzheimer
Những tổn thương trong não của bệnh nhân Alzheimer gây ra nhiều triệu chứng nghiêm trọng về thần kinh.
Các vấn đề về trí nhớ là một trong những dấu hiệu đầu tiên của suy giảm nhận thức liên quan đến bệnh Alzheimer.
Một số người bắt đầu nhận thấy biểu hiện lú lẫn, tình trạng này được gọi là suy giảm nhận thức dạng nhẹ (MCI).
Theo đó, bệnh nhân bắt đầu cảm thấy khả năng nhận thức suy giảm so với khoảng thời gian trước đó, nhưng các triệu chứng của họ không ảnh hưởng quá nhiều đến cuộc sống hàng ngày.
Người lớn tuổi bị MCI thường có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer cao hơn.
Các triệu chứng ban đầu của bệnh Alzheimer thường khác nhau tùy theo từng người.
Đối với đại đa số các trường hợp, sự suy giảm khả năng nhận thức (không liên quan trực tiếp đến trí nhớ), chẳng hạn như năng lực sử dụng từ ngữ, các vấn đề về tầm nhìn, không gian, suy luận hoặc phán đoán thường là báo hiệu giai đoạn đầu của bệnh Alzheimer.
Các nhà khoa học đang nghiên cứu các dấu ấn sinh học (dấu hiệu sinh học của Alzheimer được tìm thấy trong hình ảnh của não bộ, dịch não tủy và máu) để phát hiện những thay đổi sớm trong não của những người mắc MCI và ở những người bình thường có thể có nguy cơ cao mắc bệnh Alzheimer.
SA SÚT TRÍ TUỆ TRONG BỆNH ALZHEIMER
1. ĐỊNH NGHĨA
Bệnh Alzheimer là một bệnh não thoái hóa nguyên phát chưa rõ căn nguyên, với những nét đặc trưng về hóa thần kinh và thần kinh bệnh lý.
Khởi phát thường âm ỉ và tiến triển từ từ nhưng bền vững qua nhiều năm.
Khởi phát có thể ở giữa lứa trung niên hoặc thậm chí sớm hơn nhưng tỉ lệ mắc cao hơn ở tuổi già.
Những trường hợp khởi đầu trước tuổi 65-70, thường có tiền sử gia đình có người bị sa sút trí tuệ tương tự, quá trình phát triển bệnh nhanh hơn và có những nét ưu thế tổn thương thùy đỉnh và thái dương, bao gồm rối loạn vong ngôn hoặc rối loạn vong hành.
2. NGUYÊN NHÂN
Đại thể:
Sự teo não lan tỏa với các nếp nhăn vỏ não giãn rộng, các khe rãnh và các não thất cũng giãn rộng.
Vi thể:
Sự giảm sút đáng kể trong các nơ-ron đặc biệt là ở hồi hải mã, chất vô danh, nhân đỏ, vùng vỏ não trán và thái dương đỉnh.
Xuất hiện các mảng tơ thần kinh cấu tạo bởi các sợi xoắn kép, các mảng não suy (Senile plaques) với sự lắng đọng mảng amyloid và các thể hốc hạt.
Hóa thần kinh:
Giảm sút rõ rệt chất dẫn truyền thần kinh acetylcholin và các dẫn chất truyền thần kinh, điều hòa thần kinh khác.
3. CHẨN ĐOÁN
3.1. Chẩn đoán xác định
3.1.1. Lâm sàng
a. Các biểu hiện suy giảm nhận thức
- Sự suy giảm trí nhớ:
Là triệu chứng đặc trưng, sớm, điển hình và nổi bật của sa sút trí tuệ.
Theo tiến triển của bệnh, suy giảm trí nhớ ngày càng nặng hơn.
- Rối loạn định hướng:
Là những triệu chứng quan trọng trong bệnh cảnh lâm sàng (rối loạn định hướng về không gian, địa lý rất rõ rệt…)
- Các triệu chứng suy giảm chức năng nhận thức khác:
+ Vong ngôn:
Có thể là vong ngôn biểu hiện hoặc vong ngôn tiếp nhận.
+ Vong tri:
Giảm hoặc mất khả năng nhận biết, gọi tên đồ vật, đối tượng… mặc dù các cơ quan cảm giác, giác quan không bị tổn thương.
+ Vong hành:
Rối loạn khả năng hoạt động mặc dù các cơ quan chức năng vận động không bị tổn thương.
+ Giảm khả năng tư duy trừu tượng, khả năng tính toán, lập kế hoạch, sáng tạo, quyết định, khả năng phối hợp, theo dõi và thực hiện các hoạt động phức tạp.
b. Các triệu chứng không thuộc lĩnh vực nhận thức
- Các triệu chứng loạn thần:
30-40% các bệnh nhân sa sút trí tuệ có hoang tưởng.
Ảo giác có ở 20-30% bệnh nhân sa sút trí tuệ.
Hội chứng Capgras
- Các rối loạn cảm xúc:
Trầm cảm và lo âu được gặp ở 40-50% các bệnh nhân sa sút trí tuệ.
- Các thay đổi về nhân cách:
Bệnh nhân trở nên thu mình lại, có bệnh nhân trở nên bủn xỉn, hoài nghi, ghen tuông vô lý, trẻ con hóa, ăn mặc cẩu thả, có khuynh hướng cóp nhặt bẩn thỉu…
- Rối loạn hành vi:
Kích động về đêm, rối loạn hành vi ăn uống và bài tiết…
- Các triệu chứng khác:
+ Các dấu hiệu thần kinh khu trú có thể gặp trong sa sút trí tuệ
+ Hội chứng hoàng hôn (Sundown)
+ Lú lẫn, kích động, ngã
c. Tiêu chuẩn chẩn đoán
- Để chẩn đoán sa sút trí tuệ cần căn cứ vào các tiêu chuẩn sau (ICD-10 hoặc DSM-IV):
+ Các triệu chứng tồn tại ít nhất 6 tháng
+ Suy giảm trí nhớ: đặc biệt là giảm khả năng ghi nhận các thông tin mới và khả năng nhớ lại các kiến thức đã học được trước kia.
+ Suy giảm các hoạt động nhận thức khác (cần có ít nhất một trong các biểu hiện đã mô tả).
+ Các triệu chứng không thuộc lĩnh vực nhận thức có thể có
+ Các triệu chứng trên xảy ra mà không có rối loạn ý thức kèm theo.
+ Các triệu chứng đặc trưng của bệnh Alzheimer
3.1.2. Cận lâm sàng
Có thể chỉ định các xét nghiệm sau, tùy từng trường hợp cụ thể:
a. Các trắc nghiệm tâm lý
- Đánh giá nhận thức (MMSE, GPCOG, Mini-Cog, ADAS-Cog, Wechsler…)
- Đánh giá trầm cảm (Ham-D, Beck, GDS…)
- Đánh giá lo âu (Ham-A, Zung,…)
- Đánh giá rối loạn giấc ngủ kèm theo (PSQI,…)
- Các trắc nghiệm đánh giá nhân cách (EPI, MMPI…)
b. Tổng phân tích tế bào máu ngoại vi
c. Máu lắng
d. Sinh hóa:
Xét nghiệm chức năng gan, thận, điện giải đồ, glucose, HbA1C, canxi, phosphate máu, vitamin b12, folate, hormon tuyến giáp, mỡ máu, cholinesterase máu.
e. Xét nghiệm nước tiểu
f. Chẩn đoán hình ảnh:
Chụp cắt lớp vi tính sọ não, cộng hưởng từ sọ não, SPECT, PET, fMRI … hỗ trợ chẩn đoán, loại trừ các bệnh lý mạch máu não và tổn thương choán chỗ khác.
Siêu âm ổ bụng, chụp X quang tim phổi phát hiện các bệnh đồng diễn hoặc biến chứng.
g. Thăm dò chức năng:
Điện não đồ, lưu huyết não, điện tâm đồ, siêu âm doppler xuyên sọ…
h. Một số xét nghiệm chuyên biệt:
Huyết thanh chẩn đoán giang mai, xét nghiệm tự kháng thể (kháng thể kháng phospholipid, kháng thể kháng đông Lupus, kháng thể kháng nhân,…), HIV, gen test, amyloid-PET…
3.2. Chẩn đoán phân biệt
- Rối loạn trầm cảm
- Sảng
- Hội chứng quên thực tổn: bệnh tuyến giáp, thiếu vitamin b12,
- Sa sút trí tuệ nguyên phát khác (như trong các bệnh lý mạch máu, bệnh Pick, bệnh sa sút trí tuệ thể Levy, bệnh Creuzfeldt - Jacob hoặc bệnh Huntington, sa sút trí tuệ trong bệnh Parkinson…)
- Các trạng thái nhiễm độc
4. ĐIỀU TRỊ
4.1. Nguyễn tắc điều trị
Đánh giá được mức độ sa sút trí tuệ nhất là khả năng sống độc lập của người bệnh, từ đó đưa ra một kế hoạch điều trị phù hợp cả về cơ thể- tâm thần.
Xây dựng chế độ chăm sóc, quản lý người bệnh tại bệnh viện, tại các nhà an dưỡng, tại cộng đồng…
Đồng thời có kế hoạch giúp đỡ cho gia đình bệnh nhân trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của họ.
4.2. Sơ đồ/phác đồ điều trị
- Điều trị hóa dược
- Liệu pháp tâm lý
- Điều trị hỗ trợ
4.3. Điều trị cụ thể
4.3.1. Liệu pháp hóa dược
a. Điều trị các triệu chứng nhận thức Lựa chọn thuốc trong số các thuốc sau:
Donepezil 5mg - 23mg ngày
Rivastigmin 1,5mg - 12mg/ngày (dùng đường uống và miếng dán)
Galantamin 8mg - 24mg/ngày
Một số thuốc đã được nghiên cứu điều trị suy giảm nhận thức như:
Thuốc dinh dưỡng thần kinh, thuốc tăng cường chuyển hóa, tuần hoàn não:
Cerebrolysin 10ml - 20ml/ngày
Ginkgo biloba 80mg - 120mg/ngày
Piracetam 400mg - 1200mg/ngày
Citicholin 100mg - 1000mg/ngày
Cholin Alfoscerate 200mg - 800mg/ngày
Vinpocetin 5mg - 100mg/ngày
Đối với các rối loạn như hoang tưởng, ảo giác, trầm cảm, kích động, … sử dụng các thuốc an thần kinh, chống trầm cảm, giải lo âu, …
b. Thuốc an thần kinh
Lựa chọn một, hai hoặc ba thuốc trong các thuốc sau:
Risperidon 1mg - 10 mg/ngày
Quetiapin 50mg - 800mg/ngày
Olanzapin 5mg - 30mg/ ngày
Clozapin 25 - 300mg/ngày
Aripiprazol 10 - 30mg/ngày
Haloperidol 0,5 mg - 20mg/ngày
c. Thuốc chống trầm cảm
Lựa chọn một, hai hoặc ba thuốc trong các thuốc sau:
Sertralin 50 - 200mg/ ngày
Citalopram 10 - 40 mg/ngày
Escitalopram 10 - 20mg/ngày
Fluvoxamin 100 - 200mg/ ngày
Paroxetin 20 - 50mg/ngày
Fluoxetin 10 - 60mg/ngày
Venlafaxin 75 - 375mg/ngày
Mirtazapin 15 - 60mg/ ngày
d. Chỉnh khí sắc
Lựa chọn thuốc trong số các thuốc sau:
Muối valproat 200mg - 2500mg/ngày
Muối divalproex, liều 750mg/ngày - 60mg/kg/ngày
Carbamazepin 100 - 1600mg/ngày
Oxcarbazepin 300 - 2400mg/ngày
Lamotrigin 100 - 300mg/ngày
Levitiracetam 500 - 1500mg/ngày
Thuốc hỗ trợ chức năng gan:
Aminoleban, silymarin, boganic, các amin phân nhánh khác …
Bổ sung dinh dưỡng, vitamin, khoáng chất, chế độ ăn, nuôi dưỡng đường tĩnh mạch…
4.3.2. Liệu pháp tâm lý
- Liệu pháp tâm lý trực tiếp:
Liệu pháp gia đình, liệu pháp tâm lý cá nhân…
- Liệu pháp tâm lý gián tiếp:
+ Đảm bảo môi trường an toàn với bệnh nhân và mọi người xung quanh
+ Môi trường yên tĩnh, tránh các kích thích xung quanh
+ Vệ sinh giấc ngủ
+ Giáo dục gia đình về chăm sóc, nuôi dưỡng bệnh nhân…
4.3.3. Vật lý trị liệu và hoạt động trị liệu
Phối hợp với chuyên khoa phục hồi chức năng
Mục đích:
- Phục hồi vận động
- Phục hồi ngôn ngữ: ngôn ngữ trị liệu
4.3.4. Điều trị các bệnh lý cơ thể kèm theo
Trợ giúp các hoạt động hằng ngày kể cả tắm rửa, vệ sinh cá nhân… tránh các biến chứng do nằm lâu và nâng cao chất lượng sống người bệnh.
4.3.5. Quản lý xã hội
Giới thiệu đến một hội Sa sút trí tuệ địa phương để được giáo dục và tư vấn cho tất cả các bệnh nhân và người chăm sóc họ
Đánh giá khả năng lái xe nếu họ tiếp tục muốn lái xe
Thảo luận với bệnh nhân và gia đình về các hình thức và các dịch vụ chăm sóc như tắm rửa, hỗ trợ ăn uống tại nhà hoặc tại nhà lưu trú có nhân viên được đào tạo đầy đủ
4.3.6. Hỗ trợ người chăm sóc
Người chăm sóc trong gia đình bệnh nhân sa sút trí tuệ trải nghiệm cao hơn căng thẳng, đau khổ so với những người cùng tuổi
Việc chăm sóc bệnh nhân sa sút trí tuệ chính là chăm sóc người bị sa sút và người chăm sóc chính của họ
Cần có các chương trình hỗ trợ y tế, tâm lý và thực hành phù hợp với nhu cầu của bệnh nhân và người chăm sóc.
5. TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG
Bệnh Alzheimer có đặc điểm khởi phát bằng triệu chứng suy giảm trí nhớ và tiến triển nặng dần.
Qua thời gian tiến triển của bệnh, bệnh nhân bị bệnh Alzheimer sẽ xuất hiện lo âu, trầm cảm, mất ngủ, kích động, hoang tưởng ...
Khi bệnh nặng lên, bệnh nhân Alzheimer sẽ cần hỗ trợ trong các hoạt động cơ bản hàng ngày như tắm rửa, mặc quần áo, đi vệ sinh.
Cuối cùng sẽ có các triệu chứng khó khăn khi đi lại, khó nuốt.
Nhiều khi phải cho ăn qua sonde, triệu chứng khó nuốt có thể gây viêm phổi do hít.
Thời gian từ lúc chẩn đoán đến tử vong thường khoảng 3-10 năm.
Bệnh nhân khởi phát Alzheimer từ trẻ thường tiến triển nhanh, rầm rộ hơn.
Nguyên nhân tử vong thường gặp nhất là các bệnh thứ phát như viêm phổi.
6. PHÒNG BỆNH:
- Chưa có biện pháp phòng bệnh đặc hiệu. Một số biện pháp được áp dụng như:
+ Không sử dụng thuốc lá, rượu bia, chất kích thích.
+ Phòng và điều trị tăng huyết áp, mỡ máu, đái tháo đường.
+ Chế độ ăn điều độ: giàu hoa quả, rau xanh, giảm đường, giảm chất béo no.
+ Hoạt động thể lực, trí tuệ thường xuyên.
Bệnh Alzheimer là nguyên nhân hàng đầu gây nên tình trạng sa sút trí tuệ, ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành vi của con người.
Không có cách nào để đảo ngược quá trình tiến triển bệnh, nhưng việc phát hiện và điều trị sớm có thể giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Bệnh Alzheimer là gì?
Alzheimer là một căn bệnh gây ra tình trạng mất trí nhớ, mất các chức năng nhận thức, làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sống và làm việc của người bệnh.
Đây không phải là sự lão hóa bình thường, vì vậy đừng nhầm lẫn Alzheimer với hiện tượng suy giảm trí nhớ thông thường ở người già.
Có một ngày bỗng thấy ông, bà, cha, mẹ,… càng có tuổi sẽ càng trở nên khó tính, dễ nổi cáu, hay hờn dỗi…
Điều đó có thể xuất phát từ tính cách trước nay vẫn vậy, nhưng cũng rất có thể họ đang bị hội chứng Alzheimer âm thầm tấn công…
Lịch sử phát hiện bệnh
Một trong những bí ẩn lớn của bệnh Alzheimer là tại sao bệnh lại chủ yếu tấn công người lớn tuổi.
Các nhà khoa học đang tìm hiểu những thay đổi liên quan đến tuổi tác trong não có thể gây hại cho các tế bào thần kinh và ảnh hưởng đến các loại tế bào não khác như thế nào để góp phần gây ra hiện tượng này.
Những thay đổi liên quan đến tuổi tác này bao gồm teo một số bộ phận của não, viêm, tổn thương mạch máu, sản xuất các gốc tự do và rối loạn chức năng ty thể.
Alzheimer được biết đến là nguyên nhân phổ biến của hội chứng sa sút trí tuệ.
Bệnh được đặt theo tên của bác sĩ tâm thần, tiến sĩ Alois Alzheimer người đầu tiên mô tả căn bệnh này.
Năm 1906, vị tiến sĩ này nhận thấy những thay đổi trong mô não của một phụ nữ đã chết vì một căn bệnh tâm thần bất thường.
Các triệu chứng của bệnh nhân đó bao gồm mất trí nhớ, các vấn đề về ngôn ngữ và hành vi không kiểm soát.
Sau khi bệnh nhân qua đời, ông đã kiểm tra não bộ và tìm thấy nhiều khối bất thường được gọi là mảng vón amyloid và các đám rối sợi thần kinh, hoặc đám rối “tau”.
Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới với 10,1 triệu người cao tuổi, chiếm 11% tổng dân số.
Lão hóa là quy luật của tự nhiên, tuổi thọ càng cao thì tiến trình lão hóa càng gần.
Alzheimer không phải là lão hóa thông thường.
Đó là một chứng bệnh khiến nhiều phần não dần dần bị teo đi, đặc biệt là hồi hải mã là nơi lưu giữ và tạo ký ức.
Theo thời gian, những người mắc bệnh Alzheimer mất trí nhớ và khả năng tập trung.
Việc định hướng theo không gian và thời gian ngày càng trở nên khó khăn, người bệnh cũng khó tự xoay sở trong cuộc sống hàng ngày.
Nguyên nhân
Não là bộ phận tiêu thụ tới 20% lượng oxy của toàn thân.
Theo ước tính mỗi khi chúng ta căng thẳng, não phải dùng tới 50% oxy cơ thể.
Bộ não có 100 tỷ tế bào thần kinh hay còn gọi là neuron.
Mỗi tế bào thần kinh kết nối với nhiều tế bào khác để tạo thành mạng lưới liên lạc.
Các nhóm tế bào thần kinh thực hiện các vai trò khác nhau.
Một số tham gia vào việc suy nghĩ, học hỏi và ghi nhớ, những số khác giúp chúng ta nhìn, nghe và ngửi.
Vì vậy, bộ não được xem là kho lưu giữ ký ức và cảm xúc tuyệt vời, chỉ một mùi hương đã có thể khiến nhớ đến một người, một giai điệu quen đã nhớ tới những không gian của buổi hẹn hò từ nhiều năm trước.
Đó là các tế bào não đã mò vào tận kho ký ức, khơi lại những gì bạn từng nghe, thấy… rồi so sánh, đối chiếu với hiện tại.
Như mọi tế bào khác, để duy trì sự sống các tế bào thần kinh cũng cần cung cấp nguồn dinh dưỡng.
Chất dinh dưỡng đi khắp neuron nhờ một mạng lưới các ống nhỏ li ti như ống hút.
Trong thành phần tạo nên các ống ấy có một chất tên là “tau”.
Đối với bệnh nhân bị Alzheimer, các sợi tau phát triển bất thường khiến các ống nhỏ vận chuyển dinh dưỡng cũng bị ảnh hưởng không vận chuyển được chất dinh dưỡng nữa.
Khi bị thiếu chất, khung của tế bào sụp đổ, sợi trục không dẫn được tín hiệu, kèm theo nhiều tế bào bị tiêu biến, quá trình như vậy khiến nhiều tế bào chết vón lại với nhau thành các đám rối.
Trong các nghiên cứu hay khám nghiệm ở bộ não của bệnh nhân, người ta phát hiện có rất nhiều những đám rối như thế.
Bên cạnh đám rối tau, các nhà khoa học còn thấy trong não người Alzheimer có các mảng vón.
Chúng là chất amyloid β bình thường ở trong bao mỡ màng của tế bào não, nay bong ra và vón lại, nằm len lỏi và tạo ra một bức tường để ngáng giữa các tế bào, điều này dẫn đến việc ách tắc dẫn chuyển tín hiệu của các tế bào.
Lâu dần, các tế bào không nhận được thông tin trở nên bất hoạt, thông tin mới không nhận được, thông tin cũ không thể truy cập, dần dần gây nên hiện tượng quên.
Cuối cùng, các mảng vón và đám rối lan rộng khắp não và mô não co lại đáng kể.
Những người mắc bệnh nặng không thể giao tiếp và hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc của người khác.
Giai đoạn cuối, người bệnh có thể nằm trên giường hầu hết hoặc toàn bộ thời gian khi cơ thể ngừng hoạt động.
Ai là đối tượng dễ mắc bệnh?
Nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer tăng lên theo tuổi tác, bắt đầu từ khoảng 65 tuổi.
Nhiều nghiên cứu đã xem xét liệu các hoàn cảnh sống, bệnh tật hoặc hành vi cụ thể có thể làm tăng hoặc giảm nguy cơ mắc bệnh hay không.
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng các yếu tố sau có khả năng thúc đẩy bệnh phát triển:
Bệnh tiểu đường;
Stress, căng thẳng và phiền muộn kéo dài;
Cholesterol cao;
Hút thuốc;
Ít giao tiếp xã hội.
Triệu chứng thường gặp của hội chứng Alzheimer
Bộ não được tạo thành từ hơn 100 tỷ tế bào thần kinh – nhiều hơn cả các ngôi sao trong dải ngân hà.
Chứng mất trí nhớ làm tổn thương các tế bào thần kinh khiến không còn khả năng giao tiếp hiệu quả và điều này ảnh hưởng đến cách cơ thể hoạt động.
Các triệu chứng có thể bao gồm:
1. Sa sút trí nhớ và khả năng nhận thức
Hầu hết trí nhớ và các khả năng nhận thức khác của mọi người dần trở nên kém đi khi về già.
Lúc này cơ thể không còn có thể phản ứng nhanh và linh hoạt với các tình huống, đây được xem là một phần tự nhiên của quá trình lão hóa.
Việc nhận ra và giải quyết các vấn đề phát sinh thường khó khăn hơn nhưng họ vẫn có thể tiếp cận với những kiến thức đã tiếp thu được trong nhiều năm và luôn có định hướng, độc lập và có thể đưa ra những phán đoán đúng đắn.
Điều này khác với những người bị bệnh Alzheimer.
Một trong những dấu hiệu phổ biến nhất của bệnh, đặc biệt ở giai đoạn đầu, là người bệnh không nhớ các thông tin đã biết gần đây, trí nhớ ngắn hạn bị ảnh hưởng nhiều hơn.
Điều này có nghĩa là người bệnh quên đi những sự kiện vừa xảy ra, nhưng vẫn có thể nhớ lại những trải nghiệm từ lâu.
Nhưng trí nhớ dài hạn cũng mất dần theo thời gian.
Khả năng tập trung cũng bị ảnh hưởng, khiến việc duy trì định hướng theo thời gian và không gian ngày càng khó khăn hơn.
Việc liên kết những điều đã học trong quá khứ với các tình huống hoặc ấn tượng mới trở nên khó khăn hơn.
Sẽ đến lúc không còn có thể hiểu bối cảnh hoặc đánh giá thông tin, hình thành ý kiến và sau đó quyết định phải làm gì.
Ví dụ, một bệnh nhân ở giai đoạn cuối có thể thấy bên ngoài trời đang mưa và có thể diễn đạt điều này bằng lời.
Nhưng họ sẽ không thể đưa ra kết luận cho hành động của chính mình.
Sau đó, họ có thể ra ngoài mua sắm bằng một chiếc áo thun thay vì mua áo mưa hoặc ô.
2. Khó khăn diễn đạt bằng ngôn ngữ
Người bệnh Alzheimer có thể gặp khó khăn khi theo dõi hay tham gia một cuộc trò chuyện.
Họ có thể dừng lại khi đang trò chuyện và không có ý tưởng để làm sao tiếp tục cuộc trò chuyện hoặc có thể lặp lại những câu chuyện trước đó đã nói.
Khi triệu chứng của bệnh tiến triển, việc nhớ đúng các từ trở nên khó khăn hơn và thay vào đó người bệnh sử dụng các từ hoặc cụm từ không phù hợp với ngữ cảnh.
Điều này khiến người khác khó hiểu họ.
Và những người bị sa sút trí tuệ cũng quên nghĩa của từ và sau đó thường không còn có thể theo dõi các cuộc trò chuyện.
Điều này khiến việc giao tiếp bằng lời nói của họ ngày càng khó hơn.
3. Thay đổi hành vi, tâm trạng, tính cách
Nhiều bệnh nhân phải trải qua những thay đổi đáng chú ý trong hành vi.
Tâm trạng và tính cách của người bệnh có thể thay đổi.
Họ có thể trở nên bối rối, nghi ngờ, chán nản, sợ hãi hay lo lắng.
Họ có thể dễ dàng nổi nóng ở nhà, tại nơi làm việc, khi ở với bạn bè hoặc ở những nơi mà họ cảm thấy không thoải mái.
Người bệnh có thể bắt đầu từ bỏ các sở thích, các hoạt động xã hội, các dự án công việc hay các môn thể thao.
Người bệnh cũng có thể ngại giao tiếp xã hội do các thay đổi mà họ gặp phải.
Đôi khi họ cảm thấy mệt mỏi vì công việc, gia đình và trách nhiệm xã hội.
Một số người có thể cảm nhận các thay đổi về khả năng phát triển và thực hiện kế hoạch hay làm việc với các con số.
Vì vậy những việc được xem là quen thuộc khi trước sẽ dần trở nên khó khăn và xa lạ hơn với người bệnh.
Ví dụ như không thể lái xe đến một địa điểm dù trước đó đã đi rất nhiều lần, không thể tính được hóa đơn hay là gặp khó khăn trong việc đọc hiểu, không biết sử dụng các đồ vật trong gia đình…
4. Nhầm lẫn thời gian hoặc địa điểm
Người bệnh Alzheimer có thể quên mất ngày tháng, mùa và sự chuyển biến thời gian.
Ví dụ đang đứng ở một địa điểm nhưng họ không nhớ làm sao mình đến đây, mình đến đây để làm gì, bên cạnh đó, người bệnh cũng gặp nhiều khó khăn trong việc cố hiểu một sự kiện xảy ra tức thời, ngay lúc đó.
5. Đặt đồ vật sai vị trí và không thể nhớ lại mình đã từng làm gì
Bệnh nhân có thể đặt đồ vật ở những nơi khác lạ.
Họ có thể làm mất đồ vật và không thể nhớ để tìm lại các đồ vật đó.
Vì vậy mà không ít trường hợp người bệnh cho rằng ai đó đã ăn cắp đồ của mình, và việc này sẽ xảy ra với tần suất nhiều hơn trong tương lai.
Các biến chứng
Mất trí nhớ và ngôn ngữ, suy giảm khả năng phán đoán và những thay đổi nhận thức khác do hội chứng này gây ra có thể gây khó khăn trong việc điều trị các bệnh lý khác.
Một bệnh nhân Alzheimer có thể:
Không thông báo với người khác rằng họ đang bị đau, ví dụ như đau răng, đau tay…
Không thể tuân thủ liệu trình điều trị,
Không thông báo hoặc mô tả tác dụng phụ của thuốc
Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn cuối, những thay đổi của não bắt đầu ảnh hưởng đến các chức năng thể chất, chẳng hạn như nuốt, kiểm soát hành vi…
Hầu hết bệnh nhân Alzheimer không tử vong do bệnh chính mà thường do các bệnh kèm theo như:
Viêm phổi:
Đây là tình trạng phổi bị phù nề, nhiễm trùng do việc hít phải các chất nhầy từ dịch dạ dày, hay từ thức ăn… vào phổi hoặc đường hô hấp.
Nhiễm trùng:
Bệnh nhân thường đi tiểu không tự chủ nên phải đặt thông tiểu, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng đường niệu, nếu không được điều trị sẽ càng nặng hơn, có thể đe dọa tính mạng.
Bị ngã và gặp chấn thương:
Bệnh nhân thường sẽ khó để định hướng khoảng cách vì vậy nguy cơ bị ngã khi di chuyển và vận động tăng lên.
Điều này dẫn đến các trường hợp có thể gãy xương, gặp chấn thương vùng đầu, cổ nặng có thể dẫn đến tình trạng xuất huyết, tụ máu… trường hợp nặng cần lưu viện để phẫu thuật và chăm sóc nội trú.
Phương pháp chẩn đoán
Chưa thể chẩn đoán hoàn toàn bệnh Alzheimer bằng các xét nghiệm hiện có trong khi người đó vẫn còn sống.
Căn bệnh này được chẩn đoán nếu ai đó có các triệu chứng điển hình và không tìm thấy nguyên nhân nào khác.
Đánh giá hình ảnh não bằng các kỹ thuật như chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) không đủ để biết ai đó có mắc bệnh hay không.
Vì các triệu chứng như hay quên, thay đổi hành vi và các vấn đề với định hướng có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên điều quan trọng là không nên vội vàng đi đến kết luận việc có mắc bệnh hay không.
Các triệu chứng cũng có thể do trầm cảm hoặc các tình trạng thể chất khác như viêm màng não, đột quỵ hoặc chảy máu não.
Sự thiếu hụt vitamin và khoáng chất, hoặc tác dụng phụ của thuốc đôi khi cũng có thể gây ra các triệu chứng như thế này.
Một số phương pháp điều trị có thể giúp giảm nhẹ các triệu chứng, cải thiện dần và mất hẳn.
Hiện tượng Alzheimer chỉ được chẩn đoán nếu các triệu chứng đã kéo dài hơn 6 tháng và bất kỳ nguyên nhân nào khác được coi là khó xảy ra.
Vì vậy việc khám tổng quát và làm các kiểm tra cận lâm sàng là cần thiết, nếu lo lắng có triệu chứng của bệnh, hãy đến gặp và tìm sự tư vấn từ bác sĩ chuyên khoa về thần kinh.
Điều này sẽ hữu ích trong việc chẩn đoán, điều trị và phát hiện bệnh, đặc biệt là khi bệnh vẫn còn ở giai đoạn đầu.
Các phương án tầm soát để phát hiện sự suy giảm chức năng nhận thức như:
MMSE, Mini-Cog và MoCA cũng thường được sử dụng.
Thang điểm MMSE có điểm cắt chẩn đoán sa sút trí tuệ là 26.
Ngoài biểu hiện lâm sàng, có thể chẩn đoán giai đoạn bệnh theo thang điểm MMSE (theo NICE 2011):
Bệnh Alzheimer nhẹ: MMSE 21 – 26
Bệnh Alzheimer trung bình: MMSE 10 – 20
Bệnh Alzheimer trung bình nặng: MMSE 10 – 14
Bệnh Alzheimer nặng: MMSE dưới 10
Các bài test đánh giá chuyên biệt thường được sử dụng để xác định chi tiết từng chức năng nhận thức như trí nhớ, ngôn ngữ, chức năng điều hành, thị giác cấu trúc, chú ý tập trung.
Đánh giá hoạt động sống hàng ngày:
Các chuyên gia thường sử dụng các thang đánh giá hoạt động sống cơ bản (ADL- Activity of Daily Living) và nâng cao (IADL- Instrumental Activity of Daily Living) để kiểm tra sự ảnh hưởng chức năng nhận thức lên hoạt động hàng ngày.
Đánh giá hành vi tâm thần:
Hơn 80% bệnh nhân có biểu hiện rối loạn hành vi tâm thần như trầm cảm, ảo giác, hoang tưởng, lãnh đạm, kích động.
Biện pháp điều trị
Bệnh Alzheimer không có thuốc điều trị nhưng nếu bệnh nhân sống giữa sự cảm thông thì diễn tiến bệnh sẽ chậm hơn hoặc ít ra người bệnh sẽ không tủi thân vì sự vô cảm của những người thương yêu.
Sự cô đơn, cảm giác tủi thân là điều mà người bệnh sợ nhất, họ có thể hờn dỗi, ngồi một chỗ không để ý đến con cháu dù không có chuyện gì xảy ra.
Điều họ cần là sự chăm sóc và những mối quan hệ yêu thương chân thành từ người thân và người xung quanh.
Đây là một căn bệnh rất phức tạp và không thể điều trị khỏi hoàn toàn bằng việc dùng thuốc hoặc biện pháp can thiệp nào khác.
Những cách tiếp cận hiện tại tập trung vào việc giúp mọi người duy trì chức năng tâm thần, quản lý các triệu chứng hành vi và làm chậm một số vấn đề, chẳng hạn như mất trí nhớ.
Các nhà nghiên cứu nỗ lực phát triển các liệu pháp nhắm vào các cơ chế di truyền, phân tử và tế bào cụ thể để có thể ngăn chặn nguyên nhân cơ bản gây bệnh.
1. Thuốc duy trì chức năng tâm thần
Những loại thuốc sử dụng điều trị bệnh Alzheimer mức độ trung bình đến nặng hoạt động bằng cách điều chỉnh chất dẫn truyền thần kinh, các chất hóa học truyền thông điệp giữa các tế bào thần kinh giúp giảm các triệu chứng và giải quyết một số vấn đề về hành vi.
Những loại thuốc này có thể cho hiệu quả đối với một số người nhưng không phải tất cả mọi người và có thể chỉ hữu ích trong một thời gian giới hạn.
2. Thuốc kiểm soát hành vi
Các triệu chứng hành vi phổ biến của bệnh Alzheimer bao gồm mất ngủ, đi lang thang, kích động, lo lắng và trở nên nóng tính, hung dữ.
Các nhà khoa học đang tìm hiểu lý do tại sao các triệu chứng này xảy ra và đang nghiên cứu các phương pháp điều trị mới bao gồm cả dùng thuốc và không dùng thuốc để kiểm soát bệnh.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, điều trị các triệu chứng hành vi có thể làm cho những người mắc bệnh thoải mái hơn và giúp người chăm sóc cảm thấy nhẹ nhàng hơn.
3. Kích thích từ trường xuyên sọ (TMS)
Là kỹ thuật dùng xung từ trường ngắn hạn tác động lên một vùng cụ thể của não từ bên ngoài hộp sọ, từ đó “thiết lập cân bằng” não bộ.
Phương pháp kích thích từ trường xuyên sọ được áp dụng điều trị bệnh Alzheimer và các bệnh tâm thần kinh khác, giúp người bệnh cải thiện trạng thái tinh thần, chức năng nhận thức, các hoạt động thường ngày…
Hiệu quả kéo dài khoảng 3 tháng sau một liệu trình hoặc lâu hơn, tùy vào thể trạng và cách chăm sóc người bệnh.
4. Nghiên cứu thử nghiệm phương pháp điều trị mới
Nghiên cứu về bệnh Alzheimer đã phát triển đến mức các nhà khoa học đang tìm cách để trì hoãn hoặc ngăn ngừa căn bệnh này cũng như điều trị các triệu chứng của nó.
Trong các thử nghiệm lâm sàng đang diễn ra do NIA hỗ trợ, các nhà khoa học đang phát triển và thử nghiệm một số biện pháp can thiệp khả thi.
Một số nghiên cứu về các liệu pháp điều trị bằng thuốc nhằm vào nhiều mục tiêu khác nhau, bao gồm protein beta-amyloid, chức năng mạch máu não, mất khớp thần kinh và các chất dẫn truyền thần kinh cụ thể, cũng như các can thiệp chẳng hạn như hoạt động thể chất, chế độ ăn uống, rèn luyện nhận thức và sự kết hợp của những các phương pháp tiếp cận.
Chăm sóc bệnh nhân
Để chăm sóc tốt cho người bệnh Alzheimer, người nhà cần hiểu rõ từng giai đoạn của bệnh.
Giai đoạn nhẹ
Ở giai đoạn đầu, mọi người gặp khó khăn hơn một chút trong việc tự quản lý cuộc sống của mình, nhưng họ thường vẫn có thể sống độc lập.
Thông thường rất khó để phân biệt giữa các triệu chứng ở giai đoạn đầu và chứng hay quên bình thường do lão hóa.
Không có khoảng cách giới hạn rõ ràng giữa các vấn đề bình thường liên quan đến lão hóa và bệnh Alzheimer nhẹ.
Những bệnh nhân ở giai đoạn đầu hầu như luôn cần được giúp đỡ trong các vấn đề kinh doanh và tài chính hoặc các cuộc hẹn chính thức.
Lái xe và uống thuốc thường xuyên là hai lĩnh vực quan trọng khác.
Hành vi và tâm trạng có thể thay đổi khi mắc bệnh Alzheimer giai đoạn đầu.
Bệnh có thể gây ra những cảm xúc tiêu cực như:
Sợ hãi, căng thẳng, tức giận, hoặc thậm chí cảm giác xấu hổ.
Một số người cảm thấy chán nản hoặc cáu kỉnh, hoặc họ có thể có tâm trạng thất thường.
Ở giai đoạn này người nhà và cả bệnh nhân hãy dành thời gian để tìm hiểu bệnh.
Sẽ rất khó khăn khi bị chẩn đoán đang mắc bệnh và vai trò của người chăm sóc là hãy hỗ trợ thông qua những cuộc nói chuyện, tư vấn một cách tình cảm và nhẹ nhàng.
Lúc này người bệnh cũng khó để hoàn thành các công việc sinh hoạt bình thường như lái xe, nấu nướng… vì vậy hãy ở bên và thay họ đảm nhận vị trí này.
Giai đoạn trung bình
Những người mắc bệnh Alzheimer giai đoạn này thường không thể tự lập.
Họ vẫn có thể tự ăn, uống và tắm rửa, và có thể làm những công việc đơn giản xung quanh nhà hoặc vườn, nhưng có thể phải được nhắc nhở và yêu cầu làm như vậy.
Chỉ có thể nấu ăn, mua sắm, giữ nhà sạch sẽ và đi dạo khi có sự giúp đỡ của người khác.
Họ dễ bị lạc, không tìm được đường trở về nhà, để bếp và gây nguy hiểm cho bản thân hoặc người khác.
Các kiểu hành vi như đi tới đi lui, lục lọi trong ngăn kéo và loay hoay mua quần áo một cách vô thức trở nên thường xuyên hơn.
Những cơn tức giận, nghi ngờ thậm chí là hành vi hung hăng với người khác cũng là hậu quả của các vấn đề liên quan đến bệnh Alzheimer ảnh hưởng đến nhận thức của người bệnh và hạn chế khả năng của họ.
Giai đoạn này, người bệnh trở nên khó khăn hơn khi diễn đạt mọi thứ bằng lời và hiểu những gì người khác nói.
Họ cũng nhầm lẫn quá khứ với hiện tại.
Ở giai đoạn này, sẽ cần dành toàn bộ thời gian để chăm sóc người bệnh.
Vì vậy cảm giác của người chăm sóc cũng sẽ khá nhạy cảm.
Đừng để sự căng thẳng làm ảnh hưởng tiêu cực, hãy chắc chắn mình có một nền tảng sức khỏe và tâm lý tốt trước khi chăm sóc một bệnh nhân.
Giai đoạn nặng
Ở giai đoạn này, bệnh đã trở nặng và người bệnh cần sự giúp đỡ liên tục từ người khác.
Các vấn đề về lời nói và ngôn ngữ có thể bắt đầu khiến cuộc trò chuyện gần như không thể thực hiện được.
Thậm chí cần được giúp đỡ để hoàn thành các hoạt động đơn giản hàng ngày như ăn uống.
Người bệnh thường xuyên có cảm thấy bồn chồn, ảo giác,nhầm lẫn quá khứ với hiện tại.
Họ không còn nhận ra những người mà họ từng biết rất rõ.
Việc kiểm soát các chức năng cơ thể và khả năng phối hợp vận động cũng có thể bị hạn chế.
Giai đoạn này, việc chăm sóc tại nhà có thể không đủ đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe với bệnh nhân,
Những người chăm sóc có thể cân nhắc việc chăm sóc người bệnh kế hợp các dịch vụ chăm sóc chuyên nghiệp ở cơ sở điều dưỡng chuyên môn hoặc cơ sở chăm sóc bệnh sa sút trí tuệ, nơi có thể giám sát và quản lý đầy đủ.
Cách phòng tránh
Bệnh Alzheimer xảy ra do tiến trình lão hóa não bộ theo thời gian và tuổi tác.
Bệnh có thể đến sớm hay muộn, mức độ trầm trọng hay giảm nhẹ là do lối sống và sinh hoạt.
Phòng ngừa bệnh đến sớm và kiểm soát biến chứng nguy hiểm như:
1. Phòng ngừa các bệnh tim mạch
Theo nghiên cứu, 80% người bị Alzheimer có các vấn đề liên quan đến bệnh tim mạch.
Không chỉ vậy, ở một số người, não bộ xuất hiện những mảng vón và đám rối đặc trưng nhưng lại không có biểu hiện của Alzheimer.
Để giải thích cho vấn đề này, theo chuyên gia, các mảng vón và đám rối ấy chỉ phát tác khi hệ mạch máu não cũng có vấn đề.
Tức bệnh về tim mạch là yếu tố quan trọng làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Những người bị tăng huyết áp, đái tháo đường (tiểu đường), rối loạn lipid máu (mỡ máu cao) cần khống chế ngay các rối loạn này, vì lâu dài sẽ dẫn đến bệnh tim mạch.
2. Thường xuyên tập thể dục
Với người bệnh Alzheimer, việc tập thể dục có thể giúp trì hoãn các triệu chứng.
Việc vận động cần theo phác đồ của chuyên gia để có thể khiến máu và oxy dồi dào lên nuôi dưỡng não.
3. Tránh gặp các chấn thương vùng đầu
Khảo sát cho thấy có một mối liên hệ rõ ràng giữa chấn thương đầu nặng với khả năng mắc Alzheimer về sau, đặc biệt là các chấn thương dẫn tới bất tỉnh.
Bảo vệ vùng đầu và tránh những chấn thương không đáng có.
4. Ăn uống khoa học
Một thực đơn cân bằng nhóm chất dinh dưỡng gồm nhiều rau và trái cây tươi, ngũ cốc nguyên hạt, dầu oliu, đậu phộng, cá, gà, trứng, các chế phẩm từ sữa… giúp tăng cường sức khỏe não bộ.
Lưu ý hạn chế ăn các loại thịt đỏ và đường.
5. Ngủ đúng giờ, đủ giấc và ngủ có chất lượng
Giấc ngủ tốt có thể giúp ngăn Alzheimer đến sớm và tiến triển trầm trọng.
Trong lúc ngủ, não bộ sẽ tiến hành “vệ sinh” các synapse để việc truyền tin được thông thoáng, lọc bỏ những ký ức không cần thiết, và dọn bớt amyloid β để không tạo mảng vón. Ngủ 8 tiếng mỗi đêm mà không dùng thuốc là việc lý tưởng…
Câu hỏi thường gặp
1. Bệnh Alzheimer sống được bao lâu?
Việc chăm sóc bệnh nhân mắc Alzheimer giai đoạn nặng thường gặp rất nhiều khó khăn. Bệnh Alzheimer là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ 6 trên mọi lứa tuổi ở Hoa Kỳ và đứng thứ 5 đối với những người 65 tuổi trở lên.
Mắc Alzheimer sống được bao lâu là điều mà nhiều người thắc mắc, theo thống kê tuổi thọ của mỗi bệnh nhân là khác nhau.
Tuổi thọ trung bình sau khi chẩn đoán là 8 đến 10 năm.
Một số trường hợp, nó có thể ngắn hoặc kéo dài hơn.
Mỗi người có một tiền sử sức khỏe riêng.
Lịch sử sức khỏe này liên quan trực tiếp đến việc bệnh sẽ ảnh hưởng đến họ như thế nào.
2. Bệnh có di truyền không?
Hầu hết những bệnh nhân đều có dạng khởi phát muộn của bệnh, trong đó các triệu chứng trở nên rõ ràng vào giữa những năm 60 tuổi.
Ngược lại bệnh Alzheimer khởi phát sớm rất hiếm, chiếm dưới 10% tổng số người mắc.
Bệnh thường xảy ra ở độ tuổi 30 và giữa 60.
Một số trường hợp là do sự thay đổi di truyền ở một trong ba gen.
Ba đột biến gen đơn liên quan đến bệnh Alzheimer khởi phát sớm là:
Protein tiền thân amyloid (APP) trên nhiễm sắc thể 21
Presenilin 1 (PSEN1) trên nhiễm sắc thể 14
Presenilin 2 (PSEN2) trên nhiễm sắc thể 1
Các đột biến trong các gen này dẫn đến việc sản xuất các protein bất thường có liên quan đến bệnh.
Mỗi đột biến này đều đóng một vai trò khác nhau trong việc phá vỡ APP, một loại protein mà chức năng chính xác của nó vẫn chưa được hiểu đầy đủ.
Sự phân hủy này là một phần của quá trình tạo ra các dạng mảng amyloid có hại đây được xem là một dấu hiệu của hiện tượng Alzheimer.
Một đứa trẻ có cha hoặc mẹ ruột mang đột biến gen một trong ba gen này có 50/50 cơ hội thừa hưởng đột biến đó.
Nếu đột biến trên thực tế là do di truyền, đứa trẻ có khả năng rất cao mắc bệnh Alzheimer khởi phát sớm.
Đối với các trường hợp bệnh khởi phát sớm khác, nghiên cứu đã chỉ ra rằng các thành phần di truyền khác có liên quan.
Các nghiên cứu đang được tiến hành để xác định các biến thể nguy cơ di truyền bổ sung.
Mắc hội chứng Down làm tăng nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer giai đoạn đầu.
Nhiều người mắc hội chứng Down phát triển bệnh khi lớn tuổi, với các triệu chứng xuất hiện ở độ tuổi 50 hoặc 60.
Các nhà nghiên cứu tin rằng điều này là do những người mắc hội chứng Down được sinh ra với một bản sao bổ sung của nhiễm sắc thể số 21, mang gen APP.
3. Bệnh có xuất hiện ở giới trẻ không?
Bệnh Alzheimer khởi phát sớm rất hiếm, chiếm dưới 10% tổng số người mắc bệnh Alzheimer.
Thường xảy ra ở độ tuổi 30 và giữa 60 của một người.
Một số trường hợp là do sự thay đổi di truyền gen.
TIP
NGUỒN GỐC BỆNH ALZHEIMER
Alzheimer được hiểu là bệnh mất trí nhớ phổ biến ở người già.
Nguồn gốc bệnh Alzheimer xuất phát từ việc các tế bào não chịu trách nhiệm về trí nhớ và một số chức năng khác bắt đầu chết đi.
1. Bệnh alzheimer là gì?
Là một bệnh lý về não không hồi phục, dần dần phá hủy trí nhớ, khả năng ngôn ngữ và năng lực tư duy, cuối cùng, bệnh nhân không thể hoàn thành ngay cả những công việc nhỏ nhất.
Bệnh thường tiến triển chậm, bắt đầu với biểu hiện đãng trí nhẹ thoáng qua.
Khi đã đến giai đoạn cuối, bệnh nhân thường bị tổn thương não trầm trọng.
Đây là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở người cao tuổi.
Trung bình người bệnh alzheimer chỉ có thể sống được trong khoảng từ 8 - 10 năm kể từ thời điểm mắc bệnh.
Vẫn có trường hợp sống lâu hơn nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng cách.
Diễn tiến của Alzheimer nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào mỗi người.
Mặc dù nguồn gốc bệnh Alzheimer có thể không do yếu tố di truyền và chưa được biết đến, nhưng nguy cơ mắc thường cao hơn nếu trong gia đình đã có thành viên mắc bệnh.
Nguy cơ này tăng gấp đôi mỗi 5 năm từ sau 65 tuổi.
2. Nguồn gốc bệnh Alzheimer
Bệnh Alzheimer được đặt theo tên của Tiến sĩ Alois Alzheimer. Năm 1906, bác sĩ Alzheimer nhận thấy những thay đổi bất thường trong mô não của một người phụ nữ đã tử vong vì một căn bệnh nào đó liên quan đến tâm thần.
Những triệu chứng của bệnh nhân bao gồm mất trí nhớ, rối loạn khả năng ngôn ngữ và hành vi không thể đoán trước.
Sau khi người phụ nữ qua đời, vị bác sĩ đã kiểm tra não của cô và tìm thấy nhiều khối bất thường (sau này được gọi là mảng amyloid) và các bó sợi rối (sau này được gọi là neurofibrillary, hoặc “đám rối”).
Sự hình thành của những mảng amyloid và đám rối trong não hiện nay vẫn được xem là một trong những đặc điểm chính và là nguồn gốc của bệnh Alzheimer.
Một tình trạng khác được quan sát thấy ở bệnh nhân là sự mất kết nối giữa các tế bào thần kinh (nơron) trong não.
Các tế bào thần kinh vốn là bộ phận giúp truyền thông điệp giữa các phần khác nhau của não và từ não đến các cơ quan trong cơ thể.
Trước những phát hiện của bác sĩ Alzheimer, các nhà khoa học tiếp tục làm sáng tỏ những thay đổi phức tạp trong não liên quan đến sự khởi phát và tiến triển của bệnh Alzheimer.
Sau đó, các chuyên gia cho rằng, dường như những thay đổi trong não đã xảy ra từ một thập kỷ trước khi tình trạng mất trí nhớ và các vấn đề về nhận thức khác xuất hiện.
Trên thực tế, trong giai đoạn tiền lâm sàng của bệnh Alzheimer, người bệnh hầu như không biểu hiện bất kỳ triệu chứng gì, song những thay đổi bất thường đã và đang diễn ra ngay bên trong não của bệnh nhân.
Những mảng amyloid và đám rối dần được hình thành.
Ngược lại, các tế bào thần kinh khỏe mạnh một khi ngừng hoạt động, sẽ mất kết nối với các tế bào thần kinh khác và chết đi.
Ngoài ra, có rất nhiều thay đổi phức tạp khác trong não cũng được cho là nguồn gốc gây ra bệnh Alzheimer.
Tổn thương ban đầu dường như chỉ diễn ra ở vùng hồi hải mã và vỏ não - hai bộ phận cần thiết trong việc lưu giữ ký ức.
Khi nhiều tế bào thần kinh chết đi, phần còn lại của não cũng bị ảnh hưởng, chúng bắt đầu giảm hoạt động và co lại.
Đến giai đoạn cuối của bệnh Alzheimer, tổn thương não đã lan đi rất rộng và toàn bộ mô não bị thu hẹp đáng kể.
3. Các mốc lịch sử tìm ra bệnh Alzheimer
3.1. Bệnh Alzheimer được mô tả lần đầu
Tiến sĩ Alois Alzheimer là người đầu tiên mô tả các triệu chứng của một bệnh nhân được cho là mắc một dạng rối loạn trí não vào năm 1906.
Bác sĩ tâm thần Emil Kraepelin, đồng nghiệp của Tiến sĩ Alzheimer, đã đặt cho căn bệnh này cái tên Alzheimer trong một cuốn sách y khoa năm 1910.
3.2. NIA được thành lập
Quốc hội Hoa Kỳ đã thành lập Viện nghiên cứu lão hóa (National Institute on Aging - NIA) như một phần của Viện Y tế Quốc gia (NIH) vào năm 1974.
Nhiệm vụ của NIA là hiểu rõ hơn về bản chất của lão hóa và tìm cách cải thiện chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi.
NIA cũng là nguồn của chính phủ liên bang để tài trợ cho nghiên cứu về nguồn gốc bệnh Alzheimer.
3.3. Nhận thức cộng đồng về bệnh Alzheimer
Trong một bài xã luận năm 1976, nhà thần kinh học - Tiến sĩ Robert Katzman tuyên bố rằng bệnh Alzheimer là dạng sa sút trí tuệ phổ biến nhất và là một thách thức đáng kể đối với sức khỏe cộng đồng.
Sự kiện này giúp cộng đồng có được nhận thức ban đầu về căn bệnh này, đồng thời cũng khởi động nhiều dự án nghiên cứu liên quan đến não thông qua NIA.
3.4. Hiệp hội Alzheimer được thành lập
Jerome Stone và các thành viên khác trong các nhóm hỗ trợ các gia đình có bệnh nhân Alzheimer đã đến NIA để thành lập Hiệp hội Alzheimer vào năm 1980.
Stone trở thành chủ tịch đầu tiên của hiệp hội, với mục tiêu chung là:
Cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các gia đình bị ảnh hưởng của bệnh Alzheimer;
Thúc đẩy nhiều dự án nghiên cứu hơn về căn bệnh này.
3.5. Căn nguyên gây tổn thương não được xác định
Những dấu hiệu chính của bệnh Alzheimer bên trong não là do sự hình thành một lượng lớn hai loại protein là:
Beta-amyloid và neurofibrillary.
Beta-amyloid được phát hiện vào năm 1984.
Hai năm sau, neurofibrillary được phát hiện trong não của những người bị Alzheimer.
Cả hai loại protein này đều có khả năng gây tổn thương tế bào não.
3.6. Thử nghiệm đầu tiên về thuốc điều trị Alzheimer
Năm 1978, NIA và Hiệp hội Alzheimer đã hợp tác với công ty Dược phẩm Warner - Lambert (sau này là Pfizer) để bắt đầu đợt thử nghiệm lâm sàng đầu tiên về một loại thuốc có tác dụng điều trị các triệu chứng của bệnh Alzheimer.
Năm 1993, cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chính thức phê duyệt thuốc tacrine vào trong điều trị Alzheimer.
Sau đó, 4 loại thuốc trị Alzheimer khác đã được phê duyệt trong thập kỷ tiếp theo.
3.7. Reagan được chẩn đoán mắc Alzheimer
Cựu Tổng thống Ronald Reagan thông báo rằng ông đã mắc bệnh Alzheimer vào ngày 5 tháng 11 năm 1994. Khi đó ông đã 83 tuổi.
Thời điểm đó, Reagan là người nổi tiếng đầu tiên mắc bệnh.
Thông báo của ông đã thu hút sự chú ý của công chúng đến bệnh Alzheimer.
Reagan mất năm 2004 vì viêm phổi và biến chứng của Alzheimer.
Nhiều chuyên gia bắt đầu cân nhắc về sự khác biệt giữa chứng mất trí thông thường liên quan đến tuổi tác và bệnh Alzheimer.
3.8. Nghiên cứu về mối liên quan của di truyền đến nguy cơ mắc bệnh
Năm 2003, Hiệp hội Alzheimer và NIA bắt đầu cho triển khai nghiên cứu xem liệu nguy cơ mắc bệnh Alzheimer có liên quan đến yếu tố di truyền hay không.
Chính phủ liên bang đã tài trợ cho nghiên cứu này.
3.9. Đạo luật NAPA được ký kết
Năm 2011, Tổng thống Obama đã ký kết thông qua Đạo luật NAPA (National Alzheimer’s Project Act).
NAPA là đạo luật đầu tiên phác thảo một chiến lược mang tầm cỡ quốc gia về nghiên cứu và chăm sóc cho những người mắc Alzheimer.
Đạo luật này cũng đề cập đến việc hỗ trợ cho những người chăm sóc bệnh nhân.
Một năm sau, National Alzheimer’s Plan được công bố, với mục tiêu tìm ra các phương pháp phòng ngừa Alzheimer vào năm 2025.
4. Nhận biết dấu hiệu và triệu chứng ban đầu của Alzheimer
Những tổn thương trong não của bệnh nhân Alzheimer gây ra nhiều triệu chứng nghiêm trọng về thần kinh.
Các vấn đề về trí nhớ là một trong những dấu hiệu đầu tiên của suy giảm nhận thức liên quan đến bệnh Alzheimer.
Một số người bắt đầu nhận thấy biểu hiện lú lẫn, tình trạng này được gọi là suy giảm nhận thức dạng nhẹ (MCI).
Theo đó, bệnh nhân bắt đầu cảm thấy khả năng nhận thức suy giảm so với khoảng thời gian trước đó, nhưng các triệu chứng của họ không ảnh hưởng quá nhiều đến cuộc sống hàng ngày.
Người lớn tuổi bị MCI thường có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer cao hơn.
Các triệu chứng ban đầu của bệnh Alzheimer thường khác nhau tùy theo từng người.
Đối với đại đa số các trường hợp, sự suy giảm khả năng nhận thức (không liên quan trực tiếp đến trí nhớ), chẳng hạn như năng lực sử dụng từ ngữ, các vấn đề về tầm nhìn, không gian, suy luận hoặc phán đoán thường là báo hiệu giai đoạn đầu của bệnh Alzheimer.
Các nhà khoa học đang nghiên cứu các dấu ấn sinh học (dấu hiệu sinh học của Alzheimer được tìm thấy trong hình ảnh của não bộ, dịch não tủy và máu) để phát hiện những thay đổi sớm trong não của những người mắc MCI và ở những người bình thường có thể có nguy cơ cao mắc bệnh Alzheimer.
SA SÚT TRÍ TUỆ TRONG BỆNH ALZHEIMER
1. ĐỊNH NGHĨA
Bệnh Alzheimer là một bệnh não thoái hóa nguyên phát chưa rõ căn nguyên, với những nét đặc trưng về hóa thần kinh và thần kinh bệnh lý.
Khởi phát thường âm ỉ và tiến triển từ từ nhưng bền vững qua nhiều năm.
Khởi phát có thể ở giữa lứa trung niên hoặc thậm chí sớm hơn nhưng tỉ lệ mắc cao hơn ở tuổi già.
Những trường hợp khởi đầu trước tuổi 65-70, thường có tiền sử gia đình có người bị sa sút trí tuệ tương tự, quá trình phát triển bệnh nhanh hơn và có những nét ưu thế tổn thương thùy đỉnh và thái dương, bao gồm rối loạn vong ngôn hoặc rối loạn vong hành.
2. NGUYÊN NHÂN
Đại thể:
Sự teo não lan tỏa với các nếp nhăn vỏ não giãn rộng, các khe rãnh và các não thất cũng giãn rộng.
Vi thể:
Sự giảm sút đáng kể trong các nơ-ron đặc biệt là ở hồi hải mã, chất vô danh, nhân đỏ, vùng vỏ não trán và thái dương đỉnh.
Xuất hiện các mảng tơ thần kinh cấu tạo bởi các sợi xoắn kép, các mảng não suy (Senile plaques) với sự lắng đọng mảng amyloid và các thể hốc hạt.
Hóa thần kinh:
Giảm sút rõ rệt chất dẫn truyền thần kinh acetylcholin và các dẫn chất truyền thần kinh, điều hòa thần kinh khác.
3. CHẨN ĐOÁN
3.1. Chẩn đoán xác định
3.1.1. Lâm sàng
a. Các biểu hiện suy giảm nhận thức
- Sự suy giảm trí nhớ:
Là triệu chứng đặc trưng, sớm, điển hình và nổi bật của sa sút trí tuệ.
Theo tiến triển của bệnh, suy giảm trí nhớ ngày càng nặng hơn.
- Rối loạn định hướng:
Là những triệu chứng quan trọng trong bệnh cảnh lâm sàng (rối loạn định hướng về không gian, địa lý rất rõ rệt…)
- Các triệu chứng suy giảm chức năng nhận thức khác:
+ Vong ngôn:
Có thể là vong ngôn biểu hiện hoặc vong ngôn tiếp nhận.
+ Vong tri:
Giảm hoặc mất khả năng nhận biết, gọi tên đồ vật, đối tượng… mặc dù các cơ quan cảm giác, giác quan không bị tổn thương.
+ Vong hành:
Rối loạn khả năng hoạt động mặc dù các cơ quan chức năng vận động không bị tổn thương.
+ Giảm khả năng tư duy trừu tượng, khả năng tính toán, lập kế hoạch, sáng tạo, quyết định, khả năng phối hợp, theo dõi và thực hiện các hoạt động phức tạp.
b. Các triệu chứng không thuộc lĩnh vực nhận thức
- Các triệu chứng loạn thần:
30-40% các bệnh nhân sa sút trí tuệ có hoang tưởng.
Ảo giác có ở 20-30% bệnh nhân sa sút trí tuệ.
Hội chứng Capgras
- Các rối loạn cảm xúc:
Trầm cảm và lo âu được gặp ở 40-50% các bệnh nhân sa sút trí tuệ.
- Các thay đổi về nhân cách:
Bệnh nhân trở nên thu mình lại, có bệnh nhân trở nên bủn xỉn, hoài nghi, ghen tuông vô lý, trẻ con hóa, ăn mặc cẩu thả, có khuynh hướng cóp nhặt bẩn thỉu…
- Rối loạn hành vi:
Kích động về đêm, rối loạn hành vi ăn uống và bài tiết…
- Các triệu chứng khác:
+ Các dấu hiệu thần kinh khu trú có thể gặp trong sa sút trí tuệ
+ Hội chứng hoàng hôn (Sundown)
+ Lú lẫn, kích động, ngã
c. Tiêu chuẩn chẩn đoán
- Để chẩn đoán sa sút trí tuệ cần căn cứ vào các tiêu chuẩn sau (ICD-10 hoặc DSM-IV):
+ Các triệu chứng tồn tại ít nhất 6 tháng
+ Suy giảm trí nhớ: đặc biệt là giảm khả năng ghi nhận các thông tin mới và khả năng nhớ lại các kiến thức đã học được trước kia.
+ Suy giảm các hoạt động nhận thức khác (cần có ít nhất một trong các biểu hiện đã mô tả).
+ Các triệu chứng không thuộc lĩnh vực nhận thức có thể có
+ Các triệu chứng trên xảy ra mà không có rối loạn ý thức kèm theo.
+ Các triệu chứng đặc trưng của bệnh Alzheimer
3.1.2. Cận lâm sàng
Có thể chỉ định các xét nghiệm sau, tùy từng trường hợp cụ thể:
a. Các trắc nghiệm tâm lý
- Đánh giá nhận thức (MMSE, GPCOG, Mini-Cog, ADAS-Cog, Wechsler…)
- Đánh giá trầm cảm (Ham-D, Beck, GDS…)
- Đánh giá lo âu (Ham-A, Zung,…)
- Đánh giá rối loạn giấc ngủ kèm theo (PSQI,…)
- Các trắc nghiệm đánh giá nhân cách (EPI, MMPI…)
b. Tổng phân tích tế bào máu ngoại vi
c. Máu lắng
d. Sinh hóa:
Xét nghiệm chức năng gan, thận, điện giải đồ, glucose, HbA1C, canxi, phosphate máu, vitamin b12, folate, hormon tuyến giáp, mỡ máu, cholinesterase máu.
e. Xét nghiệm nước tiểu
f. Chẩn đoán hình ảnh:
Chụp cắt lớp vi tính sọ não, cộng hưởng từ sọ não, SPECT, PET, fMRI … hỗ trợ chẩn đoán, loại trừ các bệnh lý mạch máu não và tổn thương choán chỗ khác.
Siêu âm ổ bụng, chụp X quang tim phổi phát hiện các bệnh đồng diễn hoặc biến chứng.
g. Thăm dò chức năng:
Điện não đồ, lưu huyết não, điện tâm đồ, siêu âm doppler xuyên sọ…
h. Một số xét nghiệm chuyên biệt:
Huyết thanh chẩn đoán giang mai, xét nghiệm tự kháng thể (kháng thể kháng phospholipid, kháng thể kháng đông Lupus, kháng thể kháng nhân,…), HIV, gen test, amyloid-PET…
3.2. Chẩn đoán phân biệt
- Rối loạn trầm cảm
- Sảng
- Hội chứng quên thực tổn: bệnh tuyến giáp, thiếu vitamin b12,
- Sa sút trí tuệ nguyên phát khác (như trong các bệnh lý mạch máu, bệnh Pick, bệnh sa sút trí tuệ thể Levy, bệnh Creuzfeldt - Jacob hoặc bệnh Huntington, sa sút trí tuệ trong bệnh Parkinson…)
- Các trạng thái nhiễm độc
4. ĐIỀU TRỊ
4.1. Nguyễn tắc điều trị
Đánh giá được mức độ sa sút trí tuệ nhất là khả năng sống độc lập của người bệnh, từ đó đưa ra một kế hoạch điều trị phù hợp cả về cơ thể- tâm thần.
Xây dựng chế độ chăm sóc, quản lý người bệnh tại bệnh viện, tại các nhà an dưỡng, tại cộng đồng…
Đồng thời có kế hoạch giúp đỡ cho gia đình bệnh nhân trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của họ.
4.2. Sơ đồ/phác đồ điều trị
- Điều trị hóa dược
- Liệu pháp tâm lý
- Điều trị hỗ trợ
4.3. Điều trị cụ thể
4.3.1. Liệu pháp hóa dược
a. Điều trị các triệu chứng nhận thức Lựa chọn thuốc trong số các thuốc sau:
Donepezil 5mg - 23mg ngày
Rivastigmin 1,5mg - 12mg/ngày (dùng đường uống và miếng dán)
Galantamin 8mg - 24mg/ngày
Một số thuốc đã được nghiên cứu điều trị suy giảm nhận thức như:
Thuốc dinh dưỡng thần kinh, thuốc tăng cường chuyển hóa, tuần hoàn não:
Cerebrolysin 10ml - 20ml/ngày
Ginkgo biloba 80mg - 120mg/ngày
Piracetam 400mg - 1200mg/ngày
Citicholin 100mg - 1000mg/ngày
Cholin Alfoscerate 200mg - 800mg/ngày
Vinpocetin 5mg - 100mg/ngày
Đối với các rối loạn như hoang tưởng, ảo giác, trầm cảm, kích động, … sử dụng các thuốc an thần kinh, chống trầm cảm, giải lo âu, …
b. Thuốc an thần kinh
Lựa chọn một, hai hoặc ba thuốc trong các thuốc sau:
Risperidon 1mg - 10 mg/ngày
Quetiapin 50mg - 800mg/ngày
Olanzapin 5mg - 30mg/ ngày
Clozapin 25 - 300mg/ngày
Aripiprazol 10 - 30mg/ngày
Haloperidol 0,5 mg - 20mg/ngày
c. Thuốc chống trầm cảm
Lựa chọn một, hai hoặc ba thuốc trong các thuốc sau:
Sertralin 50 - 200mg/ ngày
Citalopram 10 - 40 mg/ngày
Escitalopram 10 - 20mg/ngày
Fluvoxamin 100 - 200mg/ ngày
Paroxetin 20 - 50mg/ngày
Fluoxetin 10 - 60mg/ngày
Venlafaxin 75 - 375mg/ngày
Mirtazapin 15 - 60mg/ ngày
d. Chỉnh khí sắc
Lựa chọn thuốc trong số các thuốc sau:
Muối valproat 200mg - 2500mg/ngày
Muối divalproex, liều 750mg/ngày - 60mg/kg/ngày
Carbamazepin 100 - 1600mg/ngày
Oxcarbazepin 300 - 2400mg/ngày
Lamotrigin 100 - 300mg/ngày
Levitiracetam 500 - 1500mg/ngày
Thuốc hỗ trợ chức năng gan:
Aminoleban, silymarin, boganic, các amin phân nhánh khác …
Bổ sung dinh dưỡng, vitamin, khoáng chất, chế độ ăn, nuôi dưỡng đường tĩnh mạch…
4.3.2. Liệu pháp tâm lý
- Liệu pháp tâm lý trực tiếp:
Liệu pháp gia đình, liệu pháp tâm lý cá nhân…
- Liệu pháp tâm lý gián tiếp:
+ Đảm bảo môi trường an toàn với bệnh nhân và mọi người xung quanh
+ Môi trường yên tĩnh, tránh các kích thích xung quanh
+ Vệ sinh giấc ngủ
+ Giáo dục gia đình về chăm sóc, nuôi dưỡng bệnh nhân…
4.3.3. Vật lý trị liệu và hoạt động trị liệu
Phối hợp với chuyên khoa phục hồi chức năng
Mục đích:
- Phục hồi vận động
- Phục hồi ngôn ngữ: ngôn ngữ trị liệu
4.3.4. Điều trị các bệnh lý cơ thể kèm theo
Trợ giúp các hoạt động hằng ngày kể cả tắm rửa, vệ sinh cá nhân… tránh các biến chứng do nằm lâu và nâng cao chất lượng sống người bệnh.
4.3.5. Quản lý xã hội
Giới thiệu đến một hội Sa sút trí tuệ địa phương để được giáo dục và tư vấn cho tất cả các bệnh nhân và người chăm sóc họ
Đánh giá khả năng lái xe nếu họ tiếp tục muốn lái xe
Thảo luận với bệnh nhân và gia đình về các hình thức và các dịch vụ chăm sóc như tắm rửa, hỗ trợ ăn uống tại nhà hoặc tại nhà lưu trú có nhân viên được đào tạo đầy đủ
4.3.6. Hỗ trợ người chăm sóc
Người chăm sóc trong gia đình bệnh nhân sa sút trí tuệ trải nghiệm cao hơn căng thẳng, đau khổ so với những người cùng tuổi
Việc chăm sóc bệnh nhân sa sút trí tuệ chính là chăm sóc người bị sa sút và người chăm sóc chính của họ
Cần có các chương trình hỗ trợ y tế, tâm lý và thực hành phù hợp với nhu cầu của bệnh nhân và người chăm sóc.
5. TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG
Bệnh Alzheimer có đặc điểm khởi phát bằng triệu chứng suy giảm trí nhớ và tiến triển nặng dần.
Qua thời gian tiến triển của bệnh, bệnh nhân bị bệnh Alzheimer sẽ xuất hiện lo âu, trầm cảm, mất ngủ, kích động, hoang tưởng ...
Khi bệnh nặng lên, bệnh nhân Alzheimer sẽ cần hỗ trợ trong các hoạt động cơ bản hàng ngày như tắm rửa, mặc quần áo, đi vệ sinh.
Cuối cùng sẽ có các triệu chứng khó khăn khi đi lại, khó nuốt.
Nhiều khi phải cho ăn qua sonde, triệu chứng khó nuốt có thể gây viêm phổi do hít.
Thời gian từ lúc chẩn đoán đến tử vong thường khoảng 3-10 năm.
Bệnh nhân khởi phát Alzheimer từ trẻ thường tiến triển nhanh, rầm rộ hơn.
Nguyên nhân tử vong thường gặp nhất là các bệnh thứ phát như viêm phổi.
6. PHÒNG BỆNH:
- Chưa có biện pháp phòng bệnh đặc hiệu. Một số biện pháp được áp dụng như:
+ Không sử dụng thuốc lá, rượu bia, chất kích thích.
+ Phòng và điều trị tăng huyết áp, mỡ máu, đái tháo đường.
+ Chế độ ăn điều độ: giàu hoa quả, rau xanh, giảm đường, giảm chất béo no.
+ Hoạt động thể lực, trí tuệ thường xuyên.
Chỉ những khách hàng đã đăng nhập và mua sản phẩm này mới có thể đưa ra đánh giá.
Danh mục:
Bệnh Cơ-Xương-Khớp-Thần Kinh
Từ khóa:
Bệnh Alzheimer (thần kinh)
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.