Bệnh tâm thần phân liệt (thần kinh)
Nhanh lên! Chỉ còn 49 mặt hàng trong kho
00 days
21 hrs
40 mins
58 secs
BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT
1. ĐỊNH NGHĨA
Tâm thần phân liệt (TTPL) là bệnh loạn thần nặng tiến triển, có khuynh hướng mạn tính, làm cho người bệnh dần dần tách khỏi cuộc sống bên ngoài, thu dần vào thế giới bên trong.
Tình cảm trở nên khô lạnh dần, khả năng làm việc, học tập ngày càng sút kém, có những hành vi, ý nghĩ kỳ dị, khó hiểu.
Bệnh TTPL chiếm tỷ lệ khoảng 0,3-0,5% dân số, thường khởi phát ở lứa tuổi 18-40.
2. NGUYÊN NHÂN
Cho đến nay, bệnh nguyên, bệnh sinh bệnh TTPL vẫn chưa được xác định rõ ràng.
TTPL vẫn được xếp vào nhóm các bệnh nội sinh trong đó có vai trò của rất nhiều yếu tố:
Di truyền, miễn dịch, nhiễm độc…
Hiện nay, hai lĩnh vực được tập trung nghiên cứu nhiều nhất là:
Bất thường về gen và những bất thường về chất dẫn truyền thần kinh.
3. CHẨN ĐOÁN
3.1. Chẩn đoán xác định (theo ICD-10):
Có 9 nhóm triệu chứng
1) Tư duy vang thành tiếng, tư duy bị đánh cắp, tư duy bị phát thanh.
2) Các hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối hay bị động có liên quan rõ rệt với vận động thân thể hay các chi hoặc có liên quan với những ý nghĩ, hành vi hay cảm giác đặc biệt; tri giác hoang tưởng.
3) Các ảo thanh bình luận thường xuyên về hành vi của bệnh nhân, hay thảo luận về bệnh nhân, hoặc các loại ảo thanh khác xuất phát từ một bộ phận nào đó của thân thể.
4) Các loại hoang tưởng dai dẳng khác không thích hợp về mặt văn hóa và hoàn toàn không thể có được như tính đồng nhất về tôn giáo hay chính trị hoặc những khả năng và quyền lực siêu nhiên (ví dụ: có khả năng điều khiển thời tiết hoặc đang tiếp xúc với những người của thế giới khác).
5) Ảo giác dai dẳng bất cứ loại nào, có khi kèm theo hoang tưởng thoảng qua hay chưa hoàn chỉnh, không có nội dung cảm xúc rõ ràng hoặc kèm theo ý tưởng quá dai dẳng xuất hiện hàng ngày, trong nhiều tuần hay nhiều tháng.
6) Tư duy gián đoạn hay thêm từ khi nói, đưa đến tư duy không liên quan hay lời nói không thích hợp hay ngôn ngữ bịa đặt.
7) Tác phong căng trương lực như kích động, giữ nguyên dáng hay uốn sáp, phủ định, không nói hay sững sờ.
8) Các triệu chứng âm tính như vô cảm rõ rệt, ngôn ngữ nghèo nàn, các đáp ứng cảm xúc cùn mòn, không thích hợp thường đưa đến cách ly xã hội hay giảm sút hiệu suất lao động xã hội; phải rõ ràng là các triệu chứng trên không do trầm cảm hay thuốc an thần kinh gây ra.
9) Biến đổi thường xuyên và có ý nghĩa về chất lượng toàn diện của tập tính có những biểu hiện như là mất thích thú, thiếu mục đích, lười nhác, thái độ mê mải suy nghĩ về bản thân và cách ly xã hội.
Ít nhất phải có một triệu chứng rõ ràng thuộc vào một trong các nhóm từ (1) đến (4) ở trên hoặc ít nhất là phải có hai trong các nhóm từ (5) đến (9).
Các triệu chứng ở trên phải tồn tại rõ ràng trong phần lớn khoảng thời gian một tháng hay lâu hơn.
Không được chẩn đoán là TTPL nếu có các triệu chứng trầm cảm hay hưng cảm mở rộng (trừ khi các triệu chứng phân liệt xuất hiện trước các rối loạn cảm xúc).
Không chẩn đoán bệnh TTPL khi có bệnh não rõ rệt hoặc bệnh nhân đang ở trạng thái nhiễm độc ma tuý.
3.2. Các thể lâm sàng bệnh tâm thần phân liệt
Theo ICD-10:
Tâm thần phân liệt thể Paranoid;
Tâm thần phân liệt thể thanh xuân;
Tâm thần phân liệt thể căng trương lực;
Tâm thần phân liệt thể không biệt định;
Tâm thần phân liệt thể trầm cảm sau phân liệt;
Tâm thần phân liệt thể di chứng;
Tâm thần phân liệt thể đơn thuần.
3.3. Chẩn đoán phân biệt
Loạn thần thực tổn:
Có thể có các triệu chứng giống TTPL nhưng không có đầy đủ tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh TTPL.
Khám thần kinh và cận lâm sàng có dấu hiệu của một bệnh thực tổn rõ rệt.
Loạn thần do các chất tác động tâm thần (rượu, ma tuý):
Xuất hiện trong hoặc sau khi sử dụng các chất tác động tâm thần.
Nét đặc trưng là những ảo giác sinh động (điển hình là ảo thanh, song thường là của nhiều giác quan, các hoang tưởng thường mang tính chất bị truy hại), rối loạn tâm thần vận động (kích động hoặc sững sờ).
Cảm xúc sợ hãi mãnh liệt, ngơ ngác.
Các triệu chứng thường mất đi một phần trong vòng một tháng và mất hoàn toàn trong vòng 6 tháng.
Khám lâm sàng và xét nghiệm phát hiện có hiện tượng nhiễm độc, sử dụng rượu hoặc ma tuý.
3.4. Cận lâm sàng:
Giúp chẩn đoán và theo dõi điều trị bệnh
3.4.1. Các xét nghiệm cơ bản
Xét nghiệm máu:
Huyết học, sinh hoá, vi sinh (HIV, VGB, VGC)
Xét nghiệm nước tiểu, xét nghiệm tìm chất ma tuý, huyết thanh chẩn đoán giang mai…
3.4.2. Chẩn đoán hình ảnh, thăm dò chức năng
XQ tim phổi, siêu âm ổ bụng
Điện não đồ, điện tâm đồ, lưu huyết não, siêu âm doppler xuyên sọ…
Trong một số trường hợp sử dụng CT scanner sọ não, MRI sọ não…
3.4.3. Các trắc nghiệm tâm lý
Trắc nghiệm tâm lý đánh giá triệu chứng dương tính và âm tính PANSS
Trắc nghiệm nhân cách:
EPI, MMPI, trắc nghiệm tâm lý khác như BDI, Zung, HDRS, HARS, HAD, MMSE…
4. ĐIỀU TRỊ
4.1. Nguyên tắc điều trị
TTPL là một bệnh nguyên nhân chưa rõ, điều trị triệu chứng là chủ yếu, cần phát hiện và can thiệp sớm.
Hóa dược liệu pháp có vai trò quan trọng, đặc biệt với các triệu chứng dương tính.
Cần phối hợp nhiều liệu pháp điều trị:
Tâm lý, lao động và tái thích ứng xã hội, đặc biệt đối với các triệu chứng âm tính.
Đơn trị liệu, khi đáp ưng kém hoặc không có đáp ứng thì sử dụng đa trị liệu phối hợp 2 loại an thần kinh khác nhau, hạn chế phối hợp từ 3 loại an thần kinh trở lên.
Theo dõi chặt chẽ quá trình sử dụng thuốc để phát hiện và xử trí kịp thời các tác dụng phụ của thuốc an thần kinh.
Giáo dục gia đình, cộng động thay đổi thái độ đối với bệnh nhân TTPL (tránh mặc cảm, kì thị người bệnh).
Phối hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc, gia đình và cộng đồng trong việc chăm sóc bệnh nhân.
Phát hiện và giải quyết kịp thời các yếu tố thúc đẩy bệnh tái phát.
Điều trị duy trì sau cơn loạn thần đầu tiên, quản lý, theo dõi phòng tái phát tại cộng đồng.
4.2. Sơ đồ/phác đồ điều trị:
Liệu pháp hóa dược + Liệu pháp tâm lý, phục hồi chức năng tại cộng đồng
4.2.1. Liệu pháp hóa dược:
Chọn một hoặc hai hoặc ba thuốc trong số các thuốc sau:
Các thuốc an thần kinh cổ điển:
Chlorpromazin: viên 25mg, ống 25mg, liều 50-250mg/24 giờ
Levomepromazin: viên 25mg, liều 25-250mg/24 giờ
Haloperidol: viên 1,5mg, viên 5 mg, ống 5mg, liều 5-30mg/24 giờ
Thioridazin: viên 50mg, liều 100-300mg/ngày
Các thuốc an thần kinh không điển hình (mới):
Amisulpirid: viên 50mg, 200mg, 400mg, liều 200-800mg/24giờ
Clozapin: viên 25mg, 100mg, liều 50-800mg/24 giờ
Risperidon: viên 1mg, 2mg, liều 1-12mg/24 giờ
Olanzapin: viên 5mg, 10mg, liều 5-30mg/24 giờ
Quetiapin: viên 50mg, 200mg, 300mg, liều 600-800 mg/ ngày
Aripiprazol viên 5mg, 10 mg, 15mg, 30mg, liều 10-15 mg/ngày, (tối đa là 30 mg/ngày)
Liều sử dụng thuốc an thần kinh có thể cao hơn tùy thuộc tình trạng bệnh và đáp ứng của bệnh nhân.
Các thuốc an thần kinh có tác dụng kéo dài:
Nên sử dụng an thần kinh có tác dụng kéo dài cho bệnh nhân không tuân thủ điều trị thuốc đều hàng ngày.
Trước khi sử dụng thuốc an thần kinh chậm nên sử dụng an thần kinh tác dụng nhanh tương ứng để thăm dò sự đáp ứng thuốc của bệnh nhân.
Haldol decanoat: ống 50mg/ml, tiêm bắp sâu 25-50mg/ lần, (4 tuần tiêm nhắc lại)
Flupentixol decanoat ống 20mg/ml, tiêm bắp sâu 20-40mg/ lần, 2-4 tuần tiêm nhắc lại.
Fluphenazin decanoat ống 25mg/ml, tiêm bắp sâu 12,5-50mg/ lần,(tối đa là 100 mg/ngày), 3-4 tuần tiêm nhắc lại.
Aripiprazol, liều tiêm 300mg hoặc 400mg, 4 tuần tiêm nhắc lại
Điều trị phối hợp: tùy trường hợp cụ thể, điều trị phối hợp với các thuốc sau:
Nhóm thuốc bình thần, giải lo âu nhóm benzodiazepins: diazepam, lorazepam, bromazepam, alprazolam,…non-benzodiazepins: etifoxine HCL, sedanxio, zopiclon…
Nhóm thuốc chẹn beta giao cảm: propanolol…
Thuốc chống trầm cảm: SSRI, TCA, SNRI, NaSSa…
Thuốc chỉnh khí sắc: Muối valproat, divalproex, carbamazepin, oxcarbazepin,…..
Nuôi dưỡng tế bào thần kinh: Piracetam, ginkgo biloba, vinpocetin, choline alfoscerate, nicergoline, …
Dinh dưỡng: Bổ sung dinh dưỡng, thuốc hỗ trợ cơ thể vitamin, khoáng chất: vitamin nhóm b, chế độ ăn, nuôi dưỡng đường tĩnh mạch…
Thuốc hỗ trợ gan, thuốc tăng cường chức năng nhận thức…
Theo dõi điều trị
Phát hiện sớm và xử trí ngay các tác dụng phụ của thuốc:
Hội chứng ngoại tháp (loạn trương lực cơ cấp, bồn chồn bất an do thuốc, hội chứng giống Parkinson):
Thuốc ức chế men cholinesterase (Trihexyphenidyl, Benztropin), thuốc chẹn beta giao cảm, thuốc bình thần.
Lưu ý hội chứng an thần kinh ác tính cần được phát hiện sớm và theo dõi điều trị tại khoa hồi sức tích cực.
Rối loạn chuyển hóa cần theo dõi định kỳ (thông qua chỉ số cơ thể BMI và các xét nghiệm sinh hóa máu 3 – 6 tháng/ lần), phát hiện và điều trị sớm.
Theo dõi công thức bạch cầu 3 tháng/lần ở bệnh nhân sử dụng clozapin. Loạn động muộn: sử dụng giãn cơ, bình thần, vitamin E, kháng cholinergic,…
4.2.2. Sốc điện, kích thích từ xuyên sọ
Sốc điện có hiệu quả điều trị trong một số trường hợp (căng trương lực, ý tưởng và hành vi tự sát do trầm cảm, hoang tưởng và ảo giác chi phối, các cơn kích động v.v… mà kém đáp ứng với điều trị bằng thuốc).
Kích thích từ xuyên sọ có hiệu quả trong ảo thanh dai dẳng…
4.2.3. Liệu pháp tâm lý
Có nhiều liệu pháp tâm lý (tâm lý cá nhân, gia đình, nhóm…), trong đó liệu pháp hành vi có vai trò quan trọng đối với bệnh nhân phân liệt.
Có thể thành lập các nhóm tương trợ với mục đích là chỗ dựa cho người bệnh và gia đình của họ.
4.2.4. Liệu pháp lao động và phục hồi chức năng
Nguyên lý là cho bệnh nhân bắt đầu hoạt động ở mức độ mà khả năng của họ cho phép đạt được để xây dựng lại lòng tin.
Từng bước nâng cao mức độ hoạt động theo khả năng cao nhất mà họ không cảm thấy bị căng thẳng.
Phục hồi chức năng nghề nghiệp cần chú ý đến môi trường xã hội, kinh tế văn hóa nơi họ sống.
4.2.5. Vật lý trị liệu, hoạt động trị liệu, cần quản lý theo dõi điều trị tại cộng đồng.
5. TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG
Tuổi khởi phát bệnh, càng lớn tuổi càng nhẹ.
Thể bệnh:
Thể bệnh là thể tiến triển từng giai đoạn có thuyên giảm có tiên lượng tốt hơn thể tiến triển liên tục hoặc từng giai đoạn với thiếu sót tăng dần
Nhân cách tiền bệnh lý:
Trước khi bị bệnh, nhân cách thích ứng hòa hợp với môi trường xung quanh có tiên lượng tốt hơn so với người có tính cách kín đáo, cô độc
Có những nhân tố bên ngoài thúc đẩy có tiên lượng tốt hơn so với bệnh phát sinh không có yếu tố bên ngoài thúc đẩy.
Yếu tố di truyền ít có tiên lượng tốt hơn
Bệnh nhân không có hoặc có ít triệu chứng âm tính thì có tiên lượng tốt hơn.
6. PHÒNG BỆNH
Căn nguyên của bệnh TTPL chưa rõ ràng nên chưa có phương pháp phòng bệnh tuyệt đối.
Rèn luyện cho trẻ em tính tập thể, biết cách thích ứng với môi trường và các điều kiện khó khăn của cuộc sống.
Theo dõi những người có yếu tố di truyền (bố, mẹ, ông bà, anh chị em họ hàng gần) bị bệnh TTPL để phát hiện sớm và điều trị sớm.
Cần tư vấn cho bệnh nhân và gia đình hiểu về bệnh, các yếu tố làm bệnh tái phát, để bệnh nhân và gia đình hợp tác, tuân thủ điều trị.
Tiếp tục theo dõi bệnh nhân sau khi ra viện, kiên trì điều trị củng cố, phát hiện các yếu tố nguy cơ và tích cực chữa các bệnh nhiễm khuẩn, bệnh cơ thể… để đề phòng bệnh tái phát.
TIP
Tâm thần phân liệt là một dạng bệnh tâm thần mãn tính khiến người bệnh dần dần bị tách khỏi cuộc sống với người thân và cộng đồng, dễ xảy ra với độ tuổi 15 - 35.
1. Thế nào là tâm thần phân liệt
Tâm thần phân liệt là một dạng bệnh tâm thần mãn tính làm nhiễu loạn suy nghĩ khiến cho tư duy của người bệnh trở nên lộn xộn và bị tách ra ngoài thực tại.
Người bệnh sẽ bị nhanh, chậm hoặc dừng hẳn tốc độ tư duy, mất khả năng suy nghĩ, hiểu hay nhớ bất kỳ điều gì.
Tính tình của người bệnh sẽ ngày càng có chiều hướng nặng lên sau một lần bệnh tái phát nên họ ngày càng xa lánh người thân, có những hành vi và ngôn ngữ khó hiểu, bị ảo tưởng và cảnh giác quá mức, có xu hướng bạo lực, nóng nảy, hướng vào nội tâm và thờ ơ với tất cả.
2. Nguyên nhân gây bệnh và triệu chứng
2.1. Nguyên nhân gây tâm thần phân liệt
- Di truyền
Những người có bố hoặc mẹ bị mắc bệnh này thì sẽ có khoảng 10% nguy cơ tâm thần phân liệt.
- Sinh hóa
Một số chất, nhất là chất dẫn truyền thần kinh trung gian (Dopamin) có vai trò giúp các tế bào não ở những phần khác nhau giao tiếp với nhau được xem là tác nhân góp phần khiến cho bệnh này hình thành.
- Quan hệ gia đình
Một số bệnh nhân bị tâm thần phân liệt rất nhạy cảm với mọi sự căng thẳng trong quan hệ gia đình nên dễ tái phát bệnh.
Quan hệ gia đình cũng là yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh này.
- Môi trường
Khi ở trong môi trường có quá nhiều sang chấn thì cũng góp phần vào nguy cơ bị tâm thần phân liệt.
Theo 1 số nghiên cứu thì tiếp xúc với một số virus có trong môi trường tử cung của người mẹ cũng có mối liên hệ với bệnh tâm thần phân liệt.
- Ma túy
Sử dụng ma túy có thể làm thay đổi tâm trí và tăng nguy cơ bị bệnh tâm thần phân liệt.
2.2. Triệu chứng cho thấy bị tâm thần phân liệt
Hoang tưởng
Bệnh nhân tâm thần phân liệt thường xuyên có những ý tưởng không phù hợp với thực tế hoặc sai lầm nhưng họ lại luôn cho là mình đúng nên người khác không thể phê phán hay giải thích cho họ hiểu được.
Xu hướng hoang tưởng của những người này thường là:
- Hoang tưởng tự cao:
Họ cho rằng mình có thể làm tướng chỉ huy quân đội mặc dù thực tế họ còn chưa từng đi bộ đội lần nào hoặc họ nghĩ mình có khả năng làm được những điều siêu phàm như chữa khỏi bệnh ung thư trong khi họ không học và không biết gì về ý thức.
- Hoang tưởng bị hại:
Đây là loại hoang tưởng thường xuyên cho rằng có ai đó luôn tìm cách hãm hại họ.
- Hoang tưởng bị chi phối:
Họ cho rằng các hành động và suy nghĩ của mình bị một thế lực vô hình nào đó điều khiển, kiểm soát.
Tùy theo nội dung mà hoang tưởng mà người bị tâm thần phân liệt sẽ có phản ứng, hành động khác nhau.
Ví dụ như khi họ nghĩ họ đang bị ai đó tìm cách đầu độc họ sẽ tự nấu ăn và từ chối ăn chung với gia đình.
Rối loạn khả năng suy nghĩ
Do bị rối loạn khả năng suy nghĩ nên bệnh nhân bị tâm thần phân liệt luôn có những lời nói rất khó hiểu, đang nói đột ngột dừng lại mãi lúc sau mới nói tiếp chuyện còn dang dở hoặc chuyển luôn sang đề tài khác.
Rất nhiều người mắc bệnh này hay nói lung tung khiến cho người nghe không thể hiểu được họ nói cái gì.
Ảo thanh
Đây là hiện tượng rất phổ biến ở bệnh nhân tâm thần phân liệt.
Thường xuyên nghe thấy âm thanh hay giọng nói tưởng tượng ở trong đầu mình, vang bên tai mình.
Nội dung của những âm thanh này là những lời chửi bới, buộc tội, nhạo báng, đe dọa,... dành cho chính họ.
Tùy theo nội dung của ảo thanh mà người bệnh sẽ có những phản ứng khác nhau.
Có thể lấy một ví dụ như:
Khi nghe thấy tiếng chửi mình bệnh nhân sẽ bịt tai lại, khi nghe thấy tiếng đe dọa bệnh nhân sẽ có hành vi tự vệ,...
Không còn ý muốn làm việc
Ban đầu, người bị tâm thần phân liệt không thể làm việc hay học tập tốt được.
Theo thời gian, khi bệnh nặng dần lên họ sẽ không còn đủ khả năng làm bất cứ việc gì, thậm chí ngay cả vệ sinh cá nhân hay tự ăn họ cũng không làm được.
Biểu lộ tình cảm suy giảm
Người bị tâm thần phân liệt sẽ suy giảm khả năng biểu lộ tình cảm nên trước những sự kiện vui hay buồn họ sẽ không phản ứng hoặc phản ứng theo chiều ngược lại.
Cách ly với xã hội
Do không muốn tiếp xúc với mọi người, kể cả người thân nên bệnh nhân tâm thần phân liệt không muốn nói chuyện với ai cả.
Nguyên nhân của tình trạng này có thể do khả năng nói chuyện của họ suy giảm hoặc chính bản thân họ hoang tưởng sợ mình bị hại nên không muốn nói chuyện.
Không có khả năng nhận thức mình bị bệnh
Hầu hết các bệnh nhân tâm thần phân liệt không nghĩ rằng mình bị bệnh này nên họ không chấp nhận đến gặp bác sĩ để điều trị.
Bản thân người bệnh không biết và không thừa nhận mình bị tâm thần phân liệt.
Vì thế, khi thấy người thân có những triệu chứng trên đây hay có hành vi bất thường nghi ngờ là bị tâm thần phân liệt, tốt nhất hãy đưa họ đến gặp bác sĩ chuyên khoa thần kinh càng sớm càng tốt để được chẩn đoán và điều trị đúng hướng.
TIP2
Tâm thần phân liệt là một rối loạn tâm thần khá phổ biến, ảnh hưởng đến khoảng 24 triệu người trên thế giới.
Bệnh thường ở gặp nam giới từ 15 – 25 tuổi và 25 – 35 tuổi đối với phụ nữ
Người tâm thần phân liệt có nguy cơ tử vong sớm, cao gấp 2 – 3 lần so với người bình thường.
Tâm thần phân liệt là bệnh gì?
Tâm thần phân liệt là tình trạng rối loạn tâm thần nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tinh thần người bệnh.
Tình trạng này làm gián đoạn quá trình hoạt động của não, can thiệp vào suy nghĩ, trí nhớ, giác quan và hành vi, khiến người bệnh gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Người bệnh tâm thần phân liệt phải điều trị suốt đời.
Can thiệp sớm có thể giúp kiểm soát các triệu chứng trước khi biến chứng nghiêm trọng phát triển.
Tâm thần phân liệt không được điều trị thường làm gián đoạn các mối quan hệ xã hội.
Ngoài ra, tình trạng này cũng khiến người bệnh gặp khó khăn trong việc sắp xếp suy nghĩ của mình, từ đó hành xử theo những cách làm họ có nguy cơ bị thương hoặc mắc các bệnh khác.
Các loại tâm thần phân liệt
Rối loạn nhân cách phân liệt (rối loạn nhân cách):
Tình trạng sức khỏe tâm thần được biểu hiện bằng cảm giác khó chịu với các mối quan hệ thân thiết và những hoạt động tương tác xã hội.
Người mắc rối loạn nhân cách phân liệt có quan điểm lệch lạc về thực tế, mê tín và hành vi bất thường.
Rối loạn hoang tưởng là một loại rối loạn tâm thần.
Đặc trưng bởi sự xuất hiện của 1 hoặc nhiều ảo tưởng.
Rối loạn tâm thần ngắn hạn.
Rối loạn tâm thần dạng phân liệt:
Tương tự như tâm thần phân liệt, tình trạng này cũng là chứng rối loạn tâm thần ảnh hưởng đến cách hành động, suy nghĩ, trao đổi giữa người bệnh với người khác.
Không giống như tâm thần phân liệt, tình trạng này chỉ kéo dài từ 1 – 6 tháng.
Rối loạn phổ tâm thần phân liệt khác.
Triệu chứng tâm thần phân liệt
Người bị tâm thần phân liệt không thể nhận biết bản thân có các triệu chứng của bệnh.
Tuy nhiên, những người xung quanh có thể nhận ra những dấu hiệu bất thường của họ.
1. Ảo tưởng
Ảo tưởng là những ý nghĩ sai lầm không dựa trên thực tế.
Ví dụ, người bệnh cho rằng mình đang bị tổn hại hoặc quấy rối.
Hay một số cử chỉ hoặc nhận xét đang nhắm vào họ.
Họ cũng nghĩ rằng mình có khả năng hoặc đặc điểm nổi trội, thậm chí có người khác đang để ý.
Người hoang tưởng luôn suy nghĩ rằng sẽ có thảm họa lớn sắp xảy ra.
Ảo tưởng xảy ra ở hầu hết người bị tâm thần phân liệt.
2. Ảo giác
Ảo giác thường liên quan đến việc nhìn hoặc nghe thấy những thứ không tồn tại.
Tuy nhiên, với người tâm thần phân liệt, ảo giác có thể chi phối và tác động đến họ như 1 điều bình thường.
Ảo giác có thể xảy ra ở bất kỳ giác quan nào.
3. Rối loạn tư duy và lời nói
Người bệnh có thể gặp khó khăn trong việc sắp xếp suy nghĩ của mình khi nói chuyện với người khác.
Điều này cũng tương tự như việc người bệnh gặp khó khăn trong việc tập trung vào một chủ đề hoặc suy nghĩ lộn xộn, đến mức mọi người không thể hiểu được họ.
4. Rối loạn vận động
Rối loạn vận động ở người bệnh tâm thần phân liệt là những cử động ngốc nghếch như hành vi của trẻ con.
Rối loạn có thể biểu hiện dưới dạng lặp đi lặp lại những hành động không chủ đích.
Khi hành vi ở mức nghiêm trọng, nó có thể gây ảnh hưởng trong việc thực hiện các hoạt động sinh hoạt hàng ngày, chẳng hạn như chứng căng trương lực.
Triệu chứng này biểu hiện như thể người bệnh đang trong tình trạng choáng váng, ít cử động hoặc phản ứng với môi trường xung quanh.
5. Triệu chứng tiêu cực
Triệu chứng tiêu cực đề cập đến việc người bệnh giảm hoặc thiếu khả năng hoạt động bình thường.
Ví dụ, người bệnh có thể bỏ bê việc vệ sinh cá nhân hoặc không biểu lộ cảm xúc (không giao tiếp bằng mắt, thay đổi nét mặt hoặc nói giọng đều đều).
Người bệnh có thể không hứng thú với các hoạt động hàng ngày, xa rời xã hội hoặc thiếu khả năng trải nghiệm niềm vui.
6. Ý nghĩ và hành vi tự sát
Khoảng 5% – 6% số người mắc tâm thần phân liệt có ý nghĩ tự sát.
Khoảng 20% người bệnh cố gắng thực hiện việc này.
Tự tử là nguyên nhân chính gây tử vong sớm ở người trẻ mắc bệnh tâm thần phân liệt.
Đây cũng là một trong những lý do chính khiến bệnh tâm thần phân liệt làm giảm tuổi thọ trung bình xuống 10 năm.
Nguy cơ tự tử tăng lên ở người mắc bệnh tâm thần phân liệt, nhất là khi họ cũng mắc chứng rối loạn sử dụng chất gây nghiện.
Nguy cơ cũng tăng lên ở người có triệu chứng trầm cảm hoặc vừa trải qua cơn loạn thần.
Nguy cơ tự tử cao nhất với người mắc bệnh tâm thần phân liệt ở giai đoạn cuối đời.
Những người này họ luôn cảm thấy đau buồn và thống khổ.
Vì vậy, các trường hợp này có nhiều khả năng thực hiện hành vi tự sát.
Nguyên nhân bệnh tâm thần phân liệt
Không có nguyên nhân duy nhất nào gây tâm thần phân liệt.
Bệnh xảy ra vì nhiều lý do khác nhau.
Có 3 lý do chính gồm:
Sự mất cân bằng trong các tín hiệu hóa học mà não sử dụng để liên lạc giữa các tế bào.
Vấn đề phát triển trí não trước khi sinh.
Mất kết nối giữa các khu vực khác nhau trong não người bệnh.
Yếu tố rủi ro mắc rối loạn tâm thần
Tiền sử gia đình.
Biến chứng khi mang thai và sinh nở:
Thai nhi phát triển trong bụng mẹ có vai trò quan trọng trong việc mắc bệnh tâm thần phân liệt.
Nguy cơ mắc bệnh tăng lên nếu mẹ bị tiểu đường thai kỳ, tiền sản giật, suy dinh dưỡng hoặc thiếu vitamin D khi mang thai.
Nguy cơ cũng tăng lên khi bé thiếu cân khi sinh hoặc có biến chứng trong khi sinh.
Thuốc hướng thần:
Tâm thần phân liệt có liên quan đến việc sử dụng một số loại ma túy tiêu khiển, nhất là dùng với số lượng lớn.
Mối liên hệ giữa việc sử dụng nhiều cần sa ở người trẻ cũng được xem là 1 yếu tố nguy cơ.
Môi trường:
Nhiễm trùng và bệnh tự miễn dịch cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc tâm thần phân liệt. Căng thẳng cực độ trong thời gian dài cũng có nguy cơ mắc bệnh.
Cấu trúc và chức năng của não.
Biến chứng rối loạn tâm thần phân liệt
Nếu không điều trị, bệnh tâm thần phân liệt có thể dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng đến mọi hoạt động của cuộc sống.
Các biến chứng do bệnh tâm thần phân liệt gây ra gồm:
Tự tử: cố gắng và có ý nghĩ tự tử.
Rối loạn lo âu và rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD).
Trầm cảm.
Lạm dụng rượu hoặc các loại thuốc khác, kể cả nicotine.
Không thể làm việc, học tập.
Vấn đề tài chính và tình trạng vô gia cư.
Cách ly xã hội.
Các vấn đề về sức khỏe.
Trở thành nạn nhân, chẳng hạn bị bắt nạt.
Có hành vi hung hăng nhưng không phổ biến.
Chẩn đoán chứng tâm thần phân liệt thế nào?
Bác sĩ chẩn đoán tâm thần phân liệt hoặc các rối loạn liên quan đến bệnh này dựa trên những câu hỏi, triệu chứng bạn mô tả hoặc thông qua quan sát hành động.
Bác sĩ cũng sẽ đặt câu hỏi để loại trừ những nguyên nhân tiềm ẩn khác gây triệu chứng.
Sau đó, so sánh với các tiêu chí cần thiết để chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt.
Theo tiêu chí trong Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần (DSM-5) do Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ xuất bản, chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt gồm những yếu tố sau:
Ít nhất 2 trong số 5 triệu chứng chính.
Xuất hiện các triệu chứng trong ít nhất 1 tháng.
Các triệu chứng ảnh hưởng đến khả năng làm việc hoặc các mối quan hệ.
Không có bất kỳ xét nghiệm chẩn đoán nào cho bệnh tâm thần phân liệt.
Tuy nhiên, bác sĩ có thể chỉ định các xét nghiệm để loại trừ những tình trạng khác, trước khi chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt.
Các xét nghiệm gồm:
Kiểm tra hình ảnh:
Bác sĩ sử dụng kỹ thuật chụp cắt lớp vi tính (CT), chụp cộng hưởng từ (MRI), các xét nghiệm hình ảnh khác để loại trừ những vấn đề như đột quỵ, chấn thương não, khối u.
Xét nghiệm máu, nước tiểu và dịch tủy:
Được thực hiện để loại trừ những rối loạn do sử dụng chất gây nghiện, rối loạn nội tiết, thần kinh hoặc bệnh tiềm ẩn.
Điện não đồ (EEG):
Giúp phát hiện và ghi lại hoạt động trong não nhằm loại trừ các tình trạng động kinh.
Tâm thần phân liệt có chữa được không?
Bệnh tâm thần phân liệt không thể chữa khỏi nhưng thường vẫn điều trị được.
Ở số ít trường hợp, người bệnh có thể hồi phục hoàn toàn nhưng rất hiếm.
Bởi không thể biết bệnh có tái lại hay không, do đó, các bác sĩ thường coi những người khỏi bệnh thuộc tình trạng thuyên giảm.
Cách điều trị bệnh tâm thần phân liệt
Bệnh tâm thần phân liệt cần điều trị suốt đời, ngay cả khi các triệu chứng đã thuyên giảm. Điều trị bằng thuốc và liệu pháp tâm lý có thể giúp kiểm soát tình trạng này.
Những trường hợp, có thể cần phải nhập viện.
1. Thuốc chống loạn thần
Thuốc chống loạn thần là thuốc được kê toa phổ biến trong điều trị tâm thần phân liệt. Thuốc giúp kiểm soát triệu chứng bằng cách tác động đến chất dẫn truyền thần kinh dopamine trong não.
Mục tiêu của điều trị bệnh bằng thuốc chống loạn thần là kiểm soát các dấu hiệu và triệu chứng ở liều thấp nhất.
Bác sĩ sẽ kết hợp các loại thuốc với liều lượng khác nhau theo thời gian để đạt kết quả điều trị mong muốn.
Các loại thuốc khác cũng có thể hữu ích, chẳng hạn như thuốc chống trầm cảm hoặc thuốc chống lo âu.
Người bệnh có thể mất vài tuần để thấy các triệu chứng cải thiện.
Vì thuốc điều trị tâm thần phân liệt có thể gây tác dụng phụ nghiêm trọng.
Do đó, người bệnh nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng.
Lưu ý:
Clozapine là loại thuốc duy nhất được FDA phê chuẩn để điều trị tâm thần phân liệt khi các phương pháp điều trị khác không hiệu quả.
Thuốc cũng được sử dụng để giảm hành vi tự tử ở người bệnh tâm thần phân liệt.
2. Tâm lý trị liệu
Các phương pháp tâm lý trị liệu bằng trò chuyện như liệu pháp hành vi nhận thức (CBT) có thể giúp người bệnh kiểm soát tình trạng của mình.
Liệu pháp này cũng có thể giúp giải quyết các vấn đề thứ phát bên cạnh bệnh tâm thần phân liệt, chẳng hạn như lo lắng, trầm cảm hoặc sử dụng chất gây nghiện.
2.1 Liệu pháp hành vi nhận thức (CBT)
Liệu pháp hành vi nhận thức (CBT) là phương pháp trị liệu tâm lý chủ yếu thông qua trò chuyện.
Liệu pháp này dùng trong điều trị và quản lý nhiều tình trạng sức khỏe tâm thần.
Khi kết hợp với thuốc, liệu pháp hành vi nhận thức có hiệu quả trong điều trị rối loạn lưỡng cực và tâm thần phân liệt.
2.2 Chăm sóc đặc biệt (CSC)
Chăm sóc đặc biệt là phương pháp điều trị bệnh tâm thần phân liệt khi các triệu chứng đầu tiên xuất hiện.
Phương pháp này thường được kết hợp với trị liệu tâm lý và các can thiệp giáo dục.
2.3 Điều trị tâm lý xã hội
Mặc dù thuốc có thể giúp giảm các triệu chứng của bệnh tâm thần phân liệt, nhưng các phương pháp điều trị tâm lý xã hội khác nhau có thể giúp giải quyết các vấn đề về hành vi, tâm lý, xã hội và nghề nghiệp đi kèm với căn bệnh này.
Thông qua trị liệu, bệnh nhân cũng có thể học cách kiểm soát các triệu chứng của mình, xác định các dấu hiệu cảnh báo sớm về việc tái phát và đưa ra kế hoạch phòng ngừa tái phát.
Các liệu pháp tâm lý xã hội bao gồm:
Phục hồi chức năng, khắc phục nhận thức, trị liệu tâm lý cá nhân.
2.4 Trị liệu gia đình
Phương pháp giúp hỗ trợ, cung cấp thông tin, nhận thức cho các gia đình có người thân mắc bệnh tâm thần phân liệt.
3. Liệu pháp sốc điện (ECT)
Với người không đáp ứng thuốc, liệu pháp sốc điện (ECT) cũng là một lựa chọn điều trị bệnh tâm thần phân liệt.
Kỹ thuật này giúp kích thích não truyền những dòng điện nhỏ nhằm làm dịu các triệu chứng.
4. Nhập viện
Người bị tâm thần phân liệt có thể điều trị ngoại trú.
Người có triệu chứng nặng, làm hại bản thân hoặc người khác, không thể chăm sóc bản thân khi ở nhà được khuyến cáo nhập viện điều trị.
Phòng ngừa rối loạn tâm thần phân liệt
Không thể ngừa hoặc giảm nguy cơ mắc bệnh tâm thần phân liệt.
Có thể đối mặt với bệnh bằng các biện pháp như:
Tìm hiểu về bệnh tâm thần phân liệt:
Cung cấp những thông tin về chứng rối loạn này có thể giúp người tâm thần phân liệt hiểu được tầm quan trọng của việc tuân thủ kế hoạch điều trị.
Điều này cũng có thể giúp bạn bè và gia đình hiểu được tình trạng bệnh và thông cảm hơn với người mắc tâm thần phân liệt.
Quản lý tâm thần phân liệt bằng cách ghi nhớ các mục tiêu điều trị nhằm giúp người bệnh kiểm soát hành vi của bản thân.
Không sử dụng rượu và ma túy: sử dụng rượu, nicotin hoặc thuốc kích thích có thể gây khó khăn cho việc điều trị bệnh tâm thần phân liệt.
Học cách thư giãn và quản lý căng thẳng: thiền, yoga hoặc thái cực quyền.
Tham gia các nhóm hỗ trợ.
Trường hợp mắc bệnh tâm thần phân liệt, nên:
Uống thuốc theo hướng dẫn.
Không tự ý ngưng thuốc khi chưa tham khảo ý kiến bác sĩ.
Tái khám định kỳ để theo dõi mức độ cải thiện bệnh, tình trạng sức khỏe, tác dụng phụ khi dùng thuốc.
Đừng bỏ qua các triệu chứng, nên cung cấp cho bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị sớm.
Không sử dụng rượu và chất kích thích vì có thể làm cho các dấu hiệu tâm thần phân liệt trở nên nghiêm trọng.
Tìm kiếm sự trợ giúp từ gia đình, bạn bè và các hội nhóm.
Tâm thần phân liệt có nguy hiểm không?
Hành vi bạo lực ở người bệnh tâm thần phân liệt hiếm khi xảy ra.
Hầu hết, người bệnh không sử dụng bạo lực hay thể hiện bất kỳ hành vi nguy hiểm nào.
Một số trường hợp, người bệnh dùng bạo lực khi họ mắc phải các triệu chứng rối loạn tâm thần cấp tính do tác động của ảo giác và ảo tưởng lên suy nghĩ.
Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, trong những trường hợp nguy hiểm, ảo tưởng thường có tác động lớn trong việc dẫn đến hành vi nguy hiểm hơn là ảo giác.
Tâm thần phân liệt là bệnh mạn tính, dễ tái phát và cần chăm sóc lâu dài.
Không có phương pháp điều trị hoàn toàn cho tình trạng này.
Việc phát hiện và điều trị sớm có thể kiểm soát các triệu chứng và ngừa biến chứng nghiêm trọng.
1. ĐỊNH NGHĨA
Tâm thần phân liệt (TTPL) là bệnh loạn thần nặng tiến triển, có khuynh hướng mạn tính, làm cho người bệnh dần dần tách khỏi cuộc sống bên ngoài, thu dần vào thế giới bên trong.
Tình cảm trở nên khô lạnh dần, khả năng làm việc, học tập ngày càng sút kém, có những hành vi, ý nghĩ kỳ dị, khó hiểu.
Bệnh TTPL chiếm tỷ lệ khoảng 0,3-0,5% dân số, thường khởi phát ở lứa tuổi 18-40.
2. NGUYÊN NHÂN
Cho đến nay, bệnh nguyên, bệnh sinh bệnh TTPL vẫn chưa được xác định rõ ràng.
TTPL vẫn được xếp vào nhóm các bệnh nội sinh trong đó có vai trò của rất nhiều yếu tố:
Di truyền, miễn dịch, nhiễm độc…
Hiện nay, hai lĩnh vực được tập trung nghiên cứu nhiều nhất là:
Bất thường về gen và những bất thường về chất dẫn truyền thần kinh.
3. CHẨN ĐOÁN
3.1. Chẩn đoán xác định (theo ICD-10):
Có 9 nhóm triệu chứng
1) Tư duy vang thành tiếng, tư duy bị đánh cắp, tư duy bị phát thanh.
2) Các hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối hay bị động có liên quan rõ rệt với vận động thân thể hay các chi hoặc có liên quan với những ý nghĩ, hành vi hay cảm giác đặc biệt; tri giác hoang tưởng.
3) Các ảo thanh bình luận thường xuyên về hành vi của bệnh nhân, hay thảo luận về bệnh nhân, hoặc các loại ảo thanh khác xuất phát từ một bộ phận nào đó của thân thể.
4) Các loại hoang tưởng dai dẳng khác không thích hợp về mặt văn hóa và hoàn toàn không thể có được như tính đồng nhất về tôn giáo hay chính trị hoặc những khả năng và quyền lực siêu nhiên (ví dụ: có khả năng điều khiển thời tiết hoặc đang tiếp xúc với những người của thế giới khác).
5) Ảo giác dai dẳng bất cứ loại nào, có khi kèm theo hoang tưởng thoảng qua hay chưa hoàn chỉnh, không có nội dung cảm xúc rõ ràng hoặc kèm theo ý tưởng quá dai dẳng xuất hiện hàng ngày, trong nhiều tuần hay nhiều tháng.
6) Tư duy gián đoạn hay thêm từ khi nói, đưa đến tư duy không liên quan hay lời nói không thích hợp hay ngôn ngữ bịa đặt.
7) Tác phong căng trương lực như kích động, giữ nguyên dáng hay uốn sáp, phủ định, không nói hay sững sờ.
8) Các triệu chứng âm tính như vô cảm rõ rệt, ngôn ngữ nghèo nàn, các đáp ứng cảm xúc cùn mòn, không thích hợp thường đưa đến cách ly xã hội hay giảm sút hiệu suất lao động xã hội; phải rõ ràng là các triệu chứng trên không do trầm cảm hay thuốc an thần kinh gây ra.
9) Biến đổi thường xuyên và có ý nghĩa về chất lượng toàn diện của tập tính có những biểu hiện như là mất thích thú, thiếu mục đích, lười nhác, thái độ mê mải suy nghĩ về bản thân và cách ly xã hội.
Ít nhất phải có một triệu chứng rõ ràng thuộc vào một trong các nhóm từ (1) đến (4) ở trên hoặc ít nhất là phải có hai trong các nhóm từ (5) đến (9).
Các triệu chứng ở trên phải tồn tại rõ ràng trong phần lớn khoảng thời gian một tháng hay lâu hơn.
Không được chẩn đoán là TTPL nếu có các triệu chứng trầm cảm hay hưng cảm mở rộng (trừ khi các triệu chứng phân liệt xuất hiện trước các rối loạn cảm xúc).
Không chẩn đoán bệnh TTPL khi có bệnh não rõ rệt hoặc bệnh nhân đang ở trạng thái nhiễm độc ma tuý.
3.2. Các thể lâm sàng bệnh tâm thần phân liệt
Theo ICD-10:
Tâm thần phân liệt thể Paranoid;
Tâm thần phân liệt thể thanh xuân;
Tâm thần phân liệt thể căng trương lực;
Tâm thần phân liệt thể không biệt định;
Tâm thần phân liệt thể trầm cảm sau phân liệt;
Tâm thần phân liệt thể di chứng;
Tâm thần phân liệt thể đơn thuần.
3.3. Chẩn đoán phân biệt
Loạn thần thực tổn:
Có thể có các triệu chứng giống TTPL nhưng không có đầy đủ tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh TTPL.
Khám thần kinh và cận lâm sàng có dấu hiệu của một bệnh thực tổn rõ rệt.
Loạn thần do các chất tác động tâm thần (rượu, ma tuý):
Xuất hiện trong hoặc sau khi sử dụng các chất tác động tâm thần.
Nét đặc trưng là những ảo giác sinh động (điển hình là ảo thanh, song thường là của nhiều giác quan, các hoang tưởng thường mang tính chất bị truy hại), rối loạn tâm thần vận động (kích động hoặc sững sờ).
Cảm xúc sợ hãi mãnh liệt, ngơ ngác.
Các triệu chứng thường mất đi một phần trong vòng một tháng và mất hoàn toàn trong vòng 6 tháng.
Khám lâm sàng và xét nghiệm phát hiện có hiện tượng nhiễm độc, sử dụng rượu hoặc ma tuý.
3.4. Cận lâm sàng:
Giúp chẩn đoán và theo dõi điều trị bệnh
3.4.1. Các xét nghiệm cơ bản
Xét nghiệm máu:
Huyết học, sinh hoá, vi sinh (HIV, VGB, VGC)
Xét nghiệm nước tiểu, xét nghiệm tìm chất ma tuý, huyết thanh chẩn đoán giang mai…
3.4.2. Chẩn đoán hình ảnh, thăm dò chức năng
XQ tim phổi, siêu âm ổ bụng
Điện não đồ, điện tâm đồ, lưu huyết não, siêu âm doppler xuyên sọ…
Trong một số trường hợp sử dụng CT scanner sọ não, MRI sọ não…
3.4.3. Các trắc nghiệm tâm lý
Trắc nghiệm tâm lý đánh giá triệu chứng dương tính và âm tính PANSS
Trắc nghiệm nhân cách:
EPI, MMPI, trắc nghiệm tâm lý khác như BDI, Zung, HDRS, HARS, HAD, MMSE…
4. ĐIỀU TRỊ
4.1. Nguyên tắc điều trị
TTPL là một bệnh nguyên nhân chưa rõ, điều trị triệu chứng là chủ yếu, cần phát hiện và can thiệp sớm.
Hóa dược liệu pháp có vai trò quan trọng, đặc biệt với các triệu chứng dương tính.
Cần phối hợp nhiều liệu pháp điều trị:
Tâm lý, lao động và tái thích ứng xã hội, đặc biệt đối với các triệu chứng âm tính.
Đơn trị liệu, khi đáp ưng kém hoặc không có đáp ứng thì sử dụng đa trị liệu phối hợp 2 loại an thần kinh khác nhau, hạn chế phối hợp từ 3 loại an thần kinh trở lên.
Theo dõi chặt chẽ quá trình sử dụng thuốc để phát hiện và xử trí kịp thời các tác dụng phụ của thuốc an thần kinh.
Giáo dục gia đình, cộng động thay đổi thái độ đối với bệnh nhân TTPL (tránh mặc cảm, kì thị người bệnh).
Phối hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc, gia đình và cộng đồng trong việc chăm sóc bệnh nhân.
Phát hiện và giải quyết kịp thời các yếu tố thúc đẩy bệnh tái phát.
Điều trị duy trì sau cơn loạn thần đầu tiên, quản lý, theo dõi phòng tái phát tại cộng đồng.
4.2. Sơ đồ/phác đồ điều trị:
Liệu pháp hóa dược + Liệu pháp tâm lý, phục hồi chức năng tại cộng đồng
4.2.1. Liệu pháp hóa dược:
Chọn một hoặc hai hoặc ba thuốc trong số các thuốc sau:
Các thuốc an thần kinh cổ điển:
Chlorpromazin: viên 25mg, ống 25mg, liều 50-250mg/24 giờ
Levomepromazin: viên 25mg, liều 25-250mg/24 giờ
Haloperidol: viên 1,5mg, viên 5 mg, ống 5mg, liều 5-30mg/24 giờ
Thioridazin: viên 50mg, liều 100-300mg/ngày
Các thuốc an thần kinh không điển hình (mới):
Amisulpirid: viên 50mg, 200mg, 400mg, liều 200-800mg/24giờ
Clozapin: viên 25mg, 100mg, liều 50-800mg/24 giờ
Risperidon: viên 1mg, 2mg, liều 1-12mg/24 giờ
Olanzapin: viên 5mg, 10mg, liều 5-30mg/24 giờ
Quetiapin: viên 50mg, 200mg, 300mg, liều 600-800 mg/ ngày
Aripiprazol viên 5mg, 10 mg, 15mg, 30mg, liều 10-15 mg/ngày, (tối đa là 30 mg/ngày)
Liều sử dụng thuốc an thần kinh có thể cao hơn tùy thuộc tình trạng bệnh và đáp ứng của bệnh nhân.
Các thuốc an thần kinh có tác dụng kéo dài:
Nên sử dụng an thần kinh có tác dụng kéo dài cho bệnh nhân không tuân thủ điều trị thuốc đều hàng ngày.
Trước khi sử dụng thuốc an thần kinh chậm nên sử dụng an thần kinh tác dụng nhanh tương ứng để thăm dò sự đáp ứng thuốc của bệnh nhân.
Haldol decanoat: ống 50mg/ml, tiêm bắp sâu 25-50mg/ lần, (4 tuần tiêm nhắc lại)
Flupentixol decanoat ống 20mg/ml, tiêm bắp sâu 20-40mg/ lần, 2-4 tuần tiêm nhắc lại.
Fluphenazin decanoat ống 25mg/ml, tiêm bắp sâu 12,5-50mg/ lần,(tối đa là 100 mg/ngày), 3-4 tuần tiêm nhắc lại.
Aripiprazol, liều tiêm 300mg hoặc 400mg, 4 tuần tiêm nhắc lại
Điều trị phối hợp: tùy trường hợp cụ thể, điều trị phối hợp với các thuốc sau:
Nhóm thuốc bình thần, giải lo âu nhóm benzodiazepins: diazepam, lorazepam, bromazepam, alprazolam,…non-benzodiazepins: etifoxine HCL, sedanxio, zopiclon…
Nhóm thuốc chẹn beta giao cảm: propanolol…
Thuốc chống trầm cảm: SSRI, TCA, SNRI, NaSSa…
Thuốc chỉnh khí sắc: Muối valproat, divalproex, carbamazepin, oxcarbazepin,…..
Nuôi dưỡng tế bào thần kinh: Piracetam, ginkgo biloba, vinpocetin, choline alfoscerate, nicergoline, …
Dinh dưỡng: Bổ sung dinh dưỡng, thuốc hỗ trợ cơ thể vitamin, khoáng chất: vitamin nhóm b, chế độ ăn, nuôi dưỡng đường tĩnh mạch…
Thuốc hỗ trợ gan, thuốc tăng cường chức năng nhận thức…
Theo dõi điều trị
Phát hiện sớm và xử trí ngay các tác dụng phụ của thuốc:
Hội chứng ngoại tháp (loạn trương lực cơ cấp, bồn chồn bất an do thuốc, hội chứng giống Parkinson):
Thuốc ức chế men cholinesterase (Trihexyphenidyl, Benztropin), thuốc chẹn beta giao cảm, thuốc bình thần.
Lưu ý hội chứng an thần kinh ác tính cần được phát hiện sớm và theo dõi điều trị tại khoa hồi sức tích cực.
Rối loạn chuyển hóa cần theo dõi định kỳ (thông qua chỉ số cơ thể BMI và các xét nghiệm sinh hóa máu 3 – 6 tháng/ lần), phát hiện và điều trị sớm.
Theo dõi công thức bạch cầu 3 tháng/lần ở bệnh nhân sử dụng clozapin. Loạn động muộn: sử dụng giãn cơ, bình thần, vitamin E, kháng cholinergic,…
4.2.2. Sốc điện, kích thích từ xuyên sọ
Sốc điện có hiệu quả điều trị trong một số trường hợp (căng trương lực, ý tưởng và hành vi tự sát do trầm cảm, hoang tưởng và ảo giác chi phối, các cơn kích động v.v… mà kém đáp ứng với điều trị bằng thuốc).
Kích thích từ xuyên sọ có hiệu quả trong ảo thanh dai dẳng…
4.2.3. Liệu pháp tâm lý
Có nhiều liệu pháp tâm lý (tâm lý cá nhân, gia đình, nhóm…), trong đó liệu pháp hành vi có vai trò quan trọng đối với bệnh nhân phân liệt.
Có thể thành lập các nhóm tương trợ với mục đích là chỗ dựa cho người bệnh và gia đình của họ.
4.2.4. Liệu pháp lao động và phục hồi chức năng
Nguyên lý là cho bệnh nhân bắt đầu hoạt động ở mức độ mà khả năng của họ cho phép đạt được để xây dựng lại lòng tin.
Từng bước nâng cao mức độ hoạt động theo khả năng cao nhất mà họ không cảm thấy bị căng thẳng.
Phục hồi chức năng nghề nghiệp cần chú ý đến môi trường xã hội, kinh tế văn hóa nơi họ sống.
4.2.5. Vật lý trị liệu, hoạt động trị liệu, cần quản lý theo dõi điều trị tại cộng đồng.
5. TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG
Tuổi khởi phát bệnh, càng lớn tuổi càng nhẹ.
Thể bệnh:
Thể bệnh là thể tiến triển từng giai đoạn có thuyên giảm có tiên lượng tốt hơn thể tiến triển liên tục hoặc từng giai đoạn với thiếu sót tăng dần
Nhân cách tiền bệnh lý:
Trước khi bị bệnh, nhân cách thích ứng hòa hợp với môi trường xung quanh có tiên lượng tốt hơn so với người có tính cách kín đáo, cô độc
Có những nhân tố bên ngoài thúc đẩy có tiên lượng tốt hơn so với bệnh phát sinh không có yếu tố bên ngoài thúc đẩy.
Yếu tố di truyền ít có tiên lượng tốt hơn
Bệnh nhân không có hoặc có ít triệu chứng âm tính thì có tiên lượng tốt hơn.
6. PHÒNG BỆNH
Căn nguyên của bệnh TTPL chưa rõ ràng nên chưa có phương pháp phòng bệnh tuyệt đối.
Rèn luyện cho trẻ em tính tập thể, biết cách thích ứng với môi trường và các điều kiện khó khăn của cuộc sống.
Theo dõi những người có yếu tố di truyền (bố, mẹ, ông bà, anh chị em họ hàng gần) bị bệnh TTPL để phát hiện sớm và điều trị sớm.
Cần tư vấn cho bệnh nhân và gia đình hiểu về bệnh, các yếu tố làm bệnh tái phát, để bệnh nhân và gia đình hợp tác, tuân thủ điều trị.
Tiếp tục theo dõi bệnh nhân sau khi ra viện, kiên trì điều trị củng cố, phát hiện các yếu tố nguy cơ và tích cực chữa các bệnh nhiễm khuẩn, bệnh cơ thể… để đề phòng bệnh tái phát.
TIP
Tâm thần phân liệt là một dạng bệnh tâm thần mãn tính khiến người bệnh dần dần bị tách khỏi cuộc sống với người thân và cộng đồng, dễ xảy ra với độ tuổi 15 - 35.
1. Thế nào là tâm thần phân liệt
Tâm thần phân liệt là một dạng bệnh tâm thần mãn tính làm nhiễu loạn suy nghĩ khiến cho tư duy của người bệnh trở nên lộn xộn và bị tách ra ngoài thực tại.
Người bệnh sẽ bị nhanh, chậm hoặc dừng hẳn tốc độ tư duy, mất khả năng suy nghĩ, hiểu hay nhớ bất kỳ điều gì.
Tính tình của người bệnh sẽ ngày càng có chiều hướng nặng lên sau một lần bệnh tái phát nên họ ngày càng xa lánh người thân, có những hành vi và ngôn ngữ khó hiểu, bị ảo tưởng và cảnh giác quá mức, có xu hướng bạo lực, nóng nảy, hướng vào nội tâm và thờ ơ với tất cả.
2. Nguyên nhân gây bệnh và triệu chứng
2.1. Nguyên nhân gây tâm thần phân liệt
- Di truyền
Những người có bố hoặc mẹ bị mắc bệnh này thì sẽ có khoảng 10% nguy cơ tâm thần phân liệt.
- Sinh hóa
Một số chất, nhất là chất dẫn truyền thần kinh trung gian (Dopamin) có vai trò giúp các tế bào não ở những phần khác nhau giao tiếp với nhau được xem là tác nhân góp phần khiến cho bệnh này hình thành.
- Quan hệ gia đình
Một số bệnh nhân bị tâm thần phân liệt rất nhạy cảm với mọi sự căng thẳng trong quan hệ gia đình nên dễ tái phát bệnh.
Quan hệ gia đình cũng là yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh này.
- Môi trường
Khi ở trong môi trường có quá nhiều sang chấn thì cũng góp phần vào nguy cơ bị tâm thần phân liệt.
Theo 1 số nghiên cứu thì tiếp xúc với một số virus có trong môi trường tử cung của người mẹ cũng có mối liên hệ với bệnh tâm thần phân liệt.
- Ma túy
Sử dụng ma túy có thể làm thay đổi tâm trí và tăng nguy cơ bị bệnh tâm thần phân liệt.
2.2. Triệu chứng cho thấy bị tâm thần phân liệt
Hoang tưởng
Bệnh nhân tâm thần phân liệt thường xuyên có những ý tưởng không phù hợp với thực tế hoặc sai lầm nhưng họ lại luôn cho là mình đúng nên người khác không thể phê phán hay giải thích cho họ hiểu được.
Xu hướng hoang tưởng của những người này thường là:
- Hoang tưởng tự cao:
Họ cho rằng mình có thể làm tướng chỉ huy quân đội mặc dù thực tế họ còn chưa từng đi bộ đội lần nào hoặc họ nghĩ mình có khả năng làm được những điều siêu phàm như chữa khỏi bệnh ung thư trong khi họ không học và không biết gì về ý thức.
- Hoang tưởng bị hại:
Đây là loại hoang tưởng thường xuyên cho rằng có ai đó luôn tìm cách hãm hại họ.
- Hoang tưởng bị chi phối:
Họ cho rằng các hành động và suy nghĩ của mình bị một thế lực vô hình nào đó điều khiển, kiểm soát.
Tùy theo nội dung mà hoang tưởng mà người bị tâm thần phân liệt sẽ có phản ứng, hành động khác nhau.
Ví dụ như khi họ nghĩ họ đang bị ai đó tìm cách đầu độc họ sẽ tự nấu ăn và từ chối ăn chung với gia đình.
Rối loạn khả năng suy nghĩ
Do bị rối loạn khả năng suy nghĩ nên bệnh nhân bị tâm thần phân liệt luôn có những lời nói rất khó hiểu, đang nói đột ngột dừng lại mãi lúc sau mới nói tiếp chuyện còn dang dở hoặc chuyển luôn sang đề tài khác.
Rất nhiều người mắc bệnh này hay nói lung tung khiến cho người nghe không thể hiểu được họ nói cái gì.
Ảo thanh
Đây là hiện tượng rất phổ biến ở bệnh nhân tâm thần phân liệt.
Thường xuyên nghe thấy âm thanh hay giọng nói tưởng tượng ở trong đầu mình, vang bên tai mình.
Nội dung của những âm thanh này là những lời chửi bới, buộc tội, nhạo báng, đe dọa,... dành cho chính họ.
Tùy theo nội dung của ảo thanh mà người bệnh sẽ có những phản ứng khác nhau.
Có thể lấy một ví dụ như:
Khi nghe thấy tiếng chửi mình bệnh nhân sẽ bịt tai lại, khi nghe thấy tiếng đe dọa bệnh nhân sẽ có hành vi tự vệ,...
Không còn ý muốn làm việc
Ban đầu, người bị tâm thần phân liệt không thể làm việc hay học tập tốt được.
Theo thời gian, khi bệnh nặng dần lên họ sẽ không còn đủ khả năng làm bất cứ việc gì, thậm chí ngay cả vệ sinh cá nhân hay tự ăn họ cũng không làm được.
Biểu lộ tình cảm suy giảm
Người bị tâm thần phân liệt sẽ suy giảm khả năng biểu lộ tình cảm nên trước những sự kiện vui hay buồn họ sẽ không phản ứng hoặc phản ứng theo chiều ngược lại.
Cách ly với xã hội
Do không muốn tiếp xúc với mọi người, kể cả người thân nên bệnh nhân tâm thần phân liệt không muốn nói chuyện với ai cả.
Nguyên nhân của tình trạng này có thể do khả năng nói chuyện của họ suy giảm hoặc chính bản thân họ hoang tưởng sợ mình bị hại nên không muốn nói chuyện.
Không có khả năng nhận thức mình bị bệnh
Hầu hết các bệnh nhân tâm thần phân liệt không nghĩ rằng mình bị bệnh này nên họ không chấp nhận đến gặp bác sĩ để điều trị.
Bản thân người bệnh không biết và không thừa nhận mình bị tâm thần phân liệt.
Vì thế, khi thấy người thân có những triệu chứng trên đây hay có hành vi bất thường nghi ngờ là bị tâm thần phân liệt, tốt nhất hãy đưa họ đến gặp bác sĩ chuyên khoa thần kinh càng sớm càng tốt để được chẩn đoán và điều trị đúng hướng.
TIP2
Tâm thần phân liệt là một rối loạn tâm thần khá phổ biến, ảnh hưởng đến khoảng 24 triệu người trên thế giới.
Bệnh thường ở gặp nam giới từ 15 – 25 tuổi và 25 – 35 tuổi đối với phụ nữ
Người tâm thần phân liệt có nguy cơ tử vong sớm, cao gấp 2 – 3 lần so với người bình thường.
Tâm thần phân liệt là bệnh gì?
Tâm thần phân liệt là tình trạng rối loạn tâm thần nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tinh thần người bệnh.
Tình trạng này làm gián đoạn quá trình hoạt động của não, can thiệp vào suy nghĩ, trí nhớ, giác quan và hành vi, khiến người bệnh gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Người bệnh tâm thần phân liệt phải điều trị suốt đời.
Can thiệp sớm có thể giúp kiểm soát các triệu chứng trước khi biến chứng nghiêm trọng phát triển.
Tâm thần phân liệt không được điều trị thường làm gián đoạn các mối quan hệ xã hội.
Ngoài ra, tình trạng này cũng khiến người bệnh gặp khó khăn trong việc sắp xếp suy nghĩ của mình, từ đó hành xử theo những cách làm họ có nguy cơ bị thương hoặc mắc các bệnh khác.
Các loại tâm thần phân liệt
Rối loạn nhân cách phân liệt (rối loạn nhân cách):
Tình trạng sức khỏe tâm thần được biểu hiện bằng cảm giác khó chịu với các mối quan hệ thân thiết và những hoạt động tương tác xã hội.
Người mắc rối loạn nhân cách phân liệt có quan điểm lệch lạc về thực tế, mê tín và hành vi bất thường.
Rối loạn hoang tưởng là một loại rối loạn tâm thần.
Đặc trưng bởi sự xuất hiện của 1 hoặc nhiều ảo tưởng.
Rối loạn tâm thần ngắn hạn.
Rối loạn tâm thần dạng phân liệt:
Tương tự như tâm thần phân liệt, tình trạng này cũng là chứng rối loạn tâm thần ảnh hưởng đến cách hành động, suy nghĩ, trao đổi giữa người bệnh với người khác.
Không giống như tâm thần phân liệt, tình trạng này chỉ kéo dài từ 1 – 6 tháng.
Rối loạn phổ tâm thần phân liệt khác.
Triệu chứng tâm thần phân liệt
Người bị tâm thần phân liệt không thể nhận biết bản thân có các triệu chứng của bệnh.
Tuy nhiên, những người xung quanh có thể nhận ra những dấu hiệu bất thường của họ.
1. Ảo tưởng
Ảo tưởng là những ý nghĩ sai lầm không dựa trên thực tế.
Ví dụ, người bệnh cho rằng mình đang bị tổn hại hoặc quấy rối.
Hay một số cử chỉ hoặc nhận xét đang nhắm vào họ.
Họ cũng nghĩ rằng mình có khả năng hoặc đặc điểm nổi trội, thậm chí có người khác đang để ý.
Người hoang tưởng luôn suy nghĩ rằng sẽ có thảm họa lớn sắp xảy ra.
Ảo tưởng xảy ra ở hầu hết người bị tâm thần phân liệt.
2. Ảo giác
Ảo giác thường liên quan đến việc nhìn hoặc nghe thấy những thứ không tồn tại.
Tuy nhiên, với người tâm thần phân liệt, ảo giác có thể chi phối và tác động đến họ như 1 điều bình thường.
Ảo giác có thể xảy ra ở bất kỳ giác quan nào.
3. Rối loạn tư duy và lời nói
Người bệnh có thể gặp khó khăn trong việc sắp xếp suy nghĩ của mình khi nói chuyện với người khác.
Điều này cũng tương tự như việc người bệnh gặp khó khăn trong việc tập trung vào một chủ đề hoặc suy nghĩ lộn xộn, đến mức mọi người không thể hiểu được họ.
4. Rối loạn vận động
Rối loạn vận động ở người bệnh tâm thần phân liệt là những cử động ngốc nghếch như hành vi của trẻ con.
Rối loạn có thể biểu hiện dưới dạng lặp đi lặp lại những hành động không chủ đích.
Khi hành vi ở mức nghiêm trọng, nó có thể gây ảnh hưởng trong việc thực hiện các hoạt động sinh hoạt hàng ngày, chẳng hạn như chứng căng trương lực.
Triệu chứng này biểu hiện như thể người bệnh đang trong tình trạng choáng váng, ít cử động hoặc phản ứng với môi trường xung quanh.
5. Triệu chứng tiêu cực
Triệu chứng tiêu cực đề cập đến việc người bệnh giảm hoặc thiếu khả năng hoạt động bình thường.
Ví dụ, người bệnh có thể bỏ bê việc vệ sinh cá nhân hoặc không biểu lộ cảm xúc (không giao tiếp bằng mắt, thay đổi nét mặt hoặc nói giọng đều đều).
Người bệnh có thể không hứng thú với các hoạt động hàng ngày, xa rời xã hội hoặc thiếu khả năng trải nghiệm niềm vui.
6. Ý nghĩ và hành vi tự sát
Khoảng 5% – 6% số người mắc tâm thần phân liệt có ý nghĩ tự sát.
Khoảng 20% người bệnh cố gắng thực hiện việc này.
Tự tử là nguyên nhân chính gây tử vong sớm ở người trẻ mắc bệnh tâm thần phân liệt.
Đây cũng là một trong những lý do chính khiến bệnh tâm thần phân liệt làm giảm tuổi thọ trung bình xuống 10 năm.
Nguy cơ tự tử tăng lên ở người mắc bệnh tâm thần phân liệt, nhất là khi họ cũng mắc chứng rối loạn sử dụng chất gây nghiện.
Nguy cơ cũng tăng lên ở người có triệu chứng trầm cảm hoặc vừa trải qua cơn loạn thần.
Nguy cơ tự tử cao nhất với người mắc bệnh tâm thần phân liệt ở giai đoạn cuối đời.
Những người này họ luôn cảm thấy đau buồn và thống khổ.
Vì vậy, các trường hợp này có nhiều khả năng thực hiện hành vi tự sát.
Nguyên nhân bệnh tâm thần phân liệt
Không có nguyên nhân duy nhất nào gây tâm thần phân liệt.
Bệnh xảy ra vì nhiều lý do khác nhau.
Có 3 lý do chính gồm:
Sự mất cân bằng trong các tín hiệu hóa học mà não sử dụng để liên lạc giữa các tế bào.
Vấn đề phát triển trí não trước khi sinh.
Mất kết nối giữa các khu vực khác nhau trong não người bệnh.
Yếu tố rủi ro mắc rối loạn tâm thần
Tiền sử gia đình.
Biến chứng khi mang thai và sinh nở:
Thai nhi phát triển trong bụng mẹ có vai trò quan trọng trong việc mắc bệnh tâm thần phân liệt.
Nguy cơ mắc bệnh tăng lên nếu mẹ bị tiểu đường thai kỳ, tiền sản giật, suy dinh dưỡng hoặc thiếu vitamin D khi mang thai.
Nguy cơ cũng tăng lên khi bé thiếu cân khi sinh hoặc có biến chứng trong khi sinh.
Thuốc hướng thần:
Tâm thần phân liệt có liên quan đến việc sử dụng một số loại ma túy tiêu khiển, nhất là dùng với số lượng lớn.
Mối liên hệ giữa việc sử dụng nhiều cần sa ở người trẻ cũng được xem là 1 yếu tố nguy cơ.
Môi trường:
Nhiễm trùng và bệnh tự miễn dịch cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc tâm thần phân liệt. Căng thẳng cực độ trong thời gian dài cũng có nguy cơ mắc bệnh.
Cấu trúc và chức năng của não.
Biến chứng rối loạn tâm thần phân liệt
Nếu không điều trị, bệnh tâm thần phân liệt có thể dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng đến mọi hoạt động của cuộc sống.
Các biến chứng do bệnh tâm thần phân liệt gây ra gồm:
Tự tử: cố gắng và có ý nghĩ tự tử.
Rối loạn lo âu và rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD).
Trầm cảm.
Lạm dụng rượu hoặc các loại thuốc khác, kể cả nicotine.
Không thể làm việc, học tập.
Vấn đề tài chính và tình trạng vô gia cư.
Cách ly xã hội.
Các vấn đề về sức khỏe.
Trở thành nạn nhân, chẳng hạn bị bắt nạt.
Có hành vi hung hăng nhưng không phổ biến.
Chẩn đoán chứng tâm thần phân liệt thế nào?
Bác sĩ chẩn đoán tâm thần phân liệt hoặc các rối loạn liên quan đến bệnh này dựa trên những câu hỏi, triệu chứng bạn mô tả hoặc thông qua quan sát hành động.
Bác sĩ cũng sẽ đặt câu hỏi để loại trừ những nguyên nhân tiềm ẩn khác gây triệu chứng.
Sau đó, so sánh với các tiêu chí cần thiết để chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt.
Theo tiêu chí trong Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần (DSM-5) do Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ xuất bản, chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt gồm những yếu tố sau:
Ít nhất 2 trong số 5 triệu chứng chính.
Xuất hiện các triệu chứng trong ít nhất 1 tháng.
Các triệu chứng ảnh hưởng đến khả năng làm việc hoặc các mối quan hệ.
Không có bất kỳ xét nghiệm chẩn đoán nào cho bệnh tâm thần phân liệt.
Tuy nhiên, bác sĩ có thể chỉ định các xét nghiệm để loại trừ những tình trạng khác, trước khi chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt.
Các xét nghiệm gồm:
Kiểm tra hình ảnh:
Bác sĩ sử dụng kỹ thuật chụp cắt lớp vi tính (CT), chụp cộng hưởng từ (MRI), các xét nghiệm hình ảnh khác để loại trừ những vấn đề như đột quỵ, chấn thương não, khối u.
Xét nghiệm máu, nước tiểu và dịch tủy:
Được thực hiện để loại trừ những rối loạn do sử dụng chất gây nghiện, rối loạn nội tiết, thần kinh hoặc bệnh tiềm ẩn.
Điện não đồ (EEG):
Giúp phát hiện và ghi lại hoạt động trong não nhằm loại trừ các tình trạng động kinh.
Tâm thần phân liệt có chữa được không?
Bệnh tâm thần phân liệt không thể chữa khỏi nhưng thường vẫn điều trị được.
Ở số ít trường hợp, người bệnh có thể hồi phục hoàn toàn nhưng rất hiếm.
Bởi không thể biết bệnh có tái lại hay không, do đó, các bác sĩ thường coi những người khỏi bệnh thuộc tình trạng thuyên giảm.
Cách điều trị bệnh tâm thần phân liệt
Bệnh tâm thần phân liệt cần điều trị suốt đời, ngay cả khi các triệu chứng đã thuyên giảm. Điều trị bằng thuốc và liệu pháp tâm lý có thể giúp kiểm soát tình trạng này.
Những trường hợp, có thể cần phải nhập viện.
1. Thuốc chống loạn thần
Thuốc chống loạn thần là thuốc được kê toa phổ biến trong điều trị tâm thần phân liệt. Thuốc giúp kiểm soát triệu chứng bằng cách tác động đến chất dẫn truyền thần kinh dopamine trong não.
Mục tiêu của điều trị bệnh bằng thuốc chống loạn thần là kiểm soát các dấu hiệu và triệu chứng ở liều thấp nhất.
Bác sĩ sẽ kết hợp các loại thuốc với liều lượng khác nhau theo thời gian để đạt kết quả điều trị mong muốn.
Các loại thuốc khác cũng có thể hữu ích, chẳng hạn như thuốc chống trầm cảm hoặc thuốc chống lo âu.
Người bệnh có thể mất vài tuần để thấy các triệu chứng cải thiện.
Vì thuốc điều trị tâm thần phân liệt có thể gây tác dụng phụ nghiêm trọng.
Do đó, người bệnh nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng.
Lưu ý:
Clozapine là loại thuốc duy nhất được FDA phê chuẩn để điều trị tâm thần phân liệt khi các phương pháp điều trị khác không hiệu quả.
Thuốc cũng được sử dụng để giảm hành vi tự tử ở người bệnh tâm thần phân liệt.
2. Tâm lý trị liệu
Các phương pháp tâm lý trị liệu bằng trò chuyện như liệu pháp hành vi nhận thức (CBT) có thể giúp người bệnh kiểm soát tình trạng của mình.
Liệu pháp này cũng có thể giúp giải quyết các vấn đề thứ phát bên cạnh bệnh tâm thần phân liệt, chẳng hạn như lo lắng, trầm cảm hoặc sử dụng chất gây nghiện.
2.1 Liệu pháp hành vi nhận thức (CBT)
Liệu pháp hành vi nhận thức (CBT) là phương pháp trị liệu tâm lý chủ yếu thông qua trò chuyện.
Liệu pháp này dùng trong điều trị và quản lý nhiều tình trạng sức khỏe tâm thần.
Khi kết hợp với thuốc, liệu pháp hành vi nhận thức có hiệu quả trong điều trị rối loạn lưỡng cực và tâm thần phân liệt.
2.2 Chăm sóc đặc biệt (CSC)
Chăm sóc đặc biệt là phương pháp điều trị bệnh tâm thần phân liệt khi các triệu chứng đầu tiên xuất hiện.
Phương pháp này thường được kết hợp với trị liệu tâm lý và các can thiệp giáo dục.
2.3 Điều trị tâm lý xã hội
Mặc dù thuốc có thể giúp giảm các triệu chứng của bệnh tâm thần phân liệt, nhưng các phương pháp điều trị tâm lý xã hội khác nhau có thể giúp giải quyết các vấn đề về hành vi, tâm lý, xã hội và nghề nghiệp đi kèm với căn bệnh này.
Thông qua trị liệu, bệnh nhân cũng có thể học cách kiểm soát các triệu chứng của mình, xác định các dấu hiệu cảnh báo sớm về việc tái phát và đưa ra kế hoạch phòng ngừa tái phát.
Các liệu pháp tâm lý xã hội bao gồm:
Phục hồi chức năng, khắc phục nhận thức, trị liệu tâm lý cá nhân.
2.4 Trị liệu gia đình
Phương pháp giúp hỗ trợ, cung cấp thông tin, nhận thức cho các gia đình có người thân mắc bệnh tâm thần phân liệt.
3. Liệu pháp sốc điện (ECT)
Với người không đáp ứng thuốc, liệu pháp sốc điện (ECT) cũng là một lựa chọn điều trị bệnh tâm thần phân liệt.
Kỹ thuật này giúp kích thích não truyền những dòng điện nhỏ nhằm làm dịu các triệu chứng.
4. Nhập viện
Người bị tâm thần phân liệt có thể điều trị ngoại trú.
Người có triệu chứng nặng, làm hại bản thân hoặc người khác, không thể chăm sóc bản thân khi ở nhà được khuyến cáo nhập viện điều trị.
Phòng ngừa rối loạn tâm thần phân liệt
Không thể ngừa hoặc giảm nguy cơ mắc bệnh tâm thần phân liệt.
Có thể đối mặt với bệnh bằng các biện pháp như:
Tìm hiểu về bệnh tâm thần phân liệt:
Cung cấp những thông tin về chứng rối loạn này có thể giúp người tâm thần phân liệt hiểu được tầm quan trọng của việc tuân thủ kế hoạch điều trị.
Điều này cũng có thể giúp bạn bè và gia đình hiểu được tình trạng bệnh và thông cảm hơn với người mắc tâm thần phân liệt.
Quản lý tâm thần phân liệt bằng cách ghi nhớ các mục tiêu điều trị nhằm giúp người bệnh kiểm soát hành vi của bản thân.
Không sử dụng rượu và ma túy: sử dụng rượu, nicotin hoặc thuốc kích thích có thể gây khó khăn cho việc điều trị bệnh tâm thần phân liệt.
Học cách thư giãn và quản lý căng thẳng: thiền, yoga hoặc thái cực quyền.
Tham gia các nhóm hỗ trợ.
Trường hợp mắc bệnh tâm thần phân liệt, nên:
Uống thuốc theo hướng dẫn.
Không tự ý ngưng thuốc khi chưa tham khảo ý kiến bác sĩ.
Tái khám định kỳ để theo dõi mức độ cải thiện bệnh, tình trạng sức khỏe, tác dụng phụ khi dùng thuốc.
Đừng bỏ qua các triệu chứng, nên cung cấp cho bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị sớm.
Không sử dụng rượu và chất kích thích vì có thể làm cho các dấu hiệu tâm thần phân liệt trở nên nghiêm trọng.
Tìm kiếm sự trợ giúp từ gia đình, bạn bè và các hội nhóm.
Tâm thần phân liệt có nguy hiểm không?
Hành vi bạo lực ở người bệnh tâm thần phân liệt hiếm khi xảy ra.
Hầu hết, người bệnh không sử dụng bạo lực hay thể hiện bất kỳ hành vi nguy hiểm nào.
Một số trường hợp, người bệnh dùng bạo lực khi họ mắc phải các triệu chứng rối loạn tâm thần cấp tính do tác động của ảo giác và ảo tưởng lên suy nghĩ.
Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, trong những trường hợp nguy hiểm, ảo tưởng thường có tác động lớn trong việc dẫn đến hành vi nguy hiểm hơn là ảo giác.
Tâm thần phân liệt là bệnh mạn tính, dễ tái phát và cần chăm sóc lâu dài.
Không có phương pháp điều trị hoàn toàn cho tình trạng này.
Việc phát hiện và điều trị sớm có thể kiểm soát các triệu chứng và ngừa biến chứng nghiêm trọng.
Chỉ những khách hàng đã đăng nhập và mua sản phẩm này mới có thể đưa ra đánh giá.
Danh mục:
Bệnh Cơ-Xương-Khớp-Thần Kinh
Từ khóa:
Bệnh tâm thần phân liệt (thần kinh)
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.