UNG THƯ BUỒNG TRỨNG, VÒI TRỨNG VÀ UNG THƯ PHÚC MẠC
Ung thư buồng trứng thường gây tử vong vì nó thường được chẩn đoán muộn.
Mô học phổ biến nhất - ung thư buồng trứng biểu mô huyết thanh mức độ cao - được coi là một thực thể lâm sàng đơn lẻ cùng với ung thư ống dẫn trứng và ung thư phúc mạc vì các đặc điểm lâm sàng chung.
Các triệu chứng thường không có hoặc không đặc hiệu.
Đánh giá thường bao gồm siêu âm, CT hoặc MRI, và đo nồng độ chỉ điểm khối u (ví dụ, kháng nguyên ung thư 125).
Chẩn đoán bằng phân tích mô học.
Giai đoạn dựa vào phẫu thuật.
Điều trị cần phải cắt bỏ tử cung, cắt buồng trứng-vòi trứng hai bên, cắt bỏ càng nhiều mô tổn thương càng tốt (cắt bỏ tế bào) và điều trị hoá chất sau đó.
Tại Hoa Kỳ, ung thư buồng trứng là bệnh ung thư phụ khoa phổ biến thứ hai (ảnh hưởng đến khoảng 1/70 phụ nữ).
Là nguyên nhân đứng hàng thứ năm gây tử vong liên quan đến ung thư ở phụ nữ và ở Hoa Kỳ, ước tính sẽ gây ra khoảng 19.710 ca mắc mới và 13.270 ca tử vong vào năm 2023.
Tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở các nước có nguồn lực cao.
Ung thư buồng trứng ảnh hưởng chính ở phụ nữ mãn kinh và sau mãn kinh.
Độ tuổi trung vị khi chẩn đoán là 63 tuổi (từ 55 tuổi đến 64 tuổi).
Nguy cơ ung thư buồng trứng tăng bởi
Trong gia đình có người thuộc thế hệ thứ nhất có ung thư buồng trứng
Tình trạng chưa sinh đẻ
Trì hoãn sinh con
Có kinh lần đầu sớm
Mãn kinh trễ
Tiền sử bản thân và gia đình có ung thư niêm mạc tử cung và ung thư đại tràng
Nguy cơ giảm bởi
Sử dụng thuốc tránh thai uống
Thay đổi dòng mầm trong gen ung thư vú 1 (BRCA1) và ung thư vú 2 (BRCA2) được xác định ở 14% đến 18% số bệnh nhân mắc ung thư buồng trứng huyết thanh mức độ cao; 3% có đột biến BRCA soma (BRCAm) hoặc bất hoạt do quá trình methyl hóa.
Thiếu hụt tái tổ hợp tương đồng (liên quan đến việc phục hồi tổn thương và sao chép DNA) được phát hiện ở khoảng một nửa số bệnh nhân mắc ung thư buồng trứng huyết thanh mức độ cao.
Các đột biến ở gen BRCA trội trên nhiễm sắc thể thường, nó có đi kèm nguy cơ phát triển ung thư vú trong cuộc đời chiếm 50 đến 85%.
Phụ nữ với BRCA1 đột biến có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng từ 20 đến 40%; nguy cơ của phụ nữ với BRCA2 đột biến là 11 đến 20%.
Tỷ lệ mắc các đột biến này ở những người có tổ tiên là người Do Thái Ashkenazi cao hơn so với dân số chung.
Các đột biến ở một số gen khác, bao gồm TP53, PTEN, STK11/LKB1, CDH1, CHEK2, ATM, MLH1 và MSH2, đã được kết hợp với ung thư vú di truyền và/hoặc ung thư buồng trứng.
Bệnh ung thư tế bào mầm thường xảy ra ở phụ nữ < 30 tuổi. Rối loạn mô sinh dục XY có xu hướng gây ra ung thư tế bào mầm của buồng trứng.
Ung thư buồng trứng là khối u ác tính có xuất phát từ một hoặc cả hai buồng trứng.
Theo thống kê tỷ lệ mắc bệnh ung thư buồng trứng khoảng 4,6/100.000 phụ nữ.
Bệnh có thể xảy ra ở nhiều độ tuổi tuy nhiên hay gặp nhất là phụ nữ trên 50.
Buồng trứng là một trong những cơ quan sinh sản của phụ nữ, mỗi phụ nữ gồm 2 buồng trứng, chúng nằm trong khung chậu và có kích thước tương đương một hạt thị.
Chức năng của buồng trứng là sản xuất ra trứng tham gia vào quá trình thụ tinh và sản xuất ra nội tiết tố nữ gồm estrogen và progesterone.
Hai loại nội tiết tố do buồng trứng tiết ra có tác động đến quá trình phát triển cơ thể người phụ nữ và liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt, mang thai.
Ung thư buồng trứng là khối u ác tính có xuất phát từ một hoặc cả hai buồng trứng.
Các tế bào ung thư là các tế bào bất thường chúng phát triển không theo sự kiểm soát của cơ thể và không tuân theo nhu cầu của cơ thể.
Các tế bào ung thư này có thể xâm lấn và phá hủy các mô, cơ quan xung quanh.
Chúng có thể di căn tới các cơ quan ở xa trong cơ thể và gây ung thư thứ phát tại cơ quan đó.
Các thể ung thư buồng trứng:
Ung thư biểu mô buồng trứng là các tế bào ung thư phát triển từ các tế bào trên bề mặt buồng trứng đây là loại hay gặp nhất
Ung thư tế bào mầm là ung thư xuất phát từ các tế bào sản xuất ra trứng, loại này ít gặp hơn ung thư biểu mô.
Ung thư buồng trứng xuất phát từ các tế bào mô nâng đỡ buồng trứng. Loại này cũng ít gặp
2. Nguyên nhân gây ung thư buồng trứng
Bệnh ung thư buồng trứng hiện nay vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân chính xác gây bệnh..
Các nghiên cứu cho thấy sự liên quan giữa các yếu tố sau làm tăng nguy cơ mắc bệnh:
Tiền sử gia đình: Những người có quan hệ huyết thống như mẹ, chị, em gái ruột mắc bệnh ung thư buồng trứng. Trong gia đình có người mắc ung thư vú, ung thư đại tràng cũng làm tăng nguy cơ mắc ung thư buồng trứng.
Tiền sử bản thân: Những phụ nữ có tiền sử mắc bệnh ung thư vú và ung thư đại tràng có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng cao hơn
Tuổi: Khả năng phát sinh ung thư buồng trứng tăng cao theo tuổi, hầu hết xuất hiện ở độ tuổi trên 50 và tăng cao ở những người trên 60 tuổi.
Mang thai và sinh con: Những phụ nữ đã từng mang thai và sinh con thì nguy cơ thấp hơn so với những người chưa từng sinh con. Sinh càng nhiều con thì nguy cơ càng thấp.
Sử dụng thuốc kích thích phóng noãn: Có thể làm tăng nhẹ nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Tuy nhiên là vẫn còn đang trong quá trình nghiên cứu.
Điều trị hormon thay thế: Điều trị hormon thay thế sau khi mãn kinh tăng nguy cơ.
Bột talc: Phụ nữ sử dụng bột talc nhiều ở cơ quan sinh dục làm tăng nguy cơ mắc ung thư buồng trứng.
3. Dấu hiệu ung thư buồng trứng
Bệnh ung thư buồng trứng cũng giống như đa phần các bệnh ung thư khác đều không có các triệu chứng hay dấu hiệu sớm, mà phải đến giai đoạn muộn mới biểu hiện rõ ràng,
Các dấu hiệu sớm của bệnh bao gồm:
Cảm giác khó chịu, đau ở vùng bụng dưới
Rối loạn tiêu hóa như buồn nôn, tiêu chảy hay táo bón
Thường xuyên đi tiểu do tăng áp lực đè ép vào bàng quang
Ăn kém, cảm giác đầy bụng kể cả sau một bữa ăn nhẹ
Tăng hoặc giảm cân không rõ nguyên nhân.
Chảy máu âm đạo bất thường sau mãn kinh, thay đổi bất thường trong chu kỳ kinh nguyệt.
Đau khi quan hệ tình dục.
4. Các giai đoạn phát triển
4.1 Giai đoạn 1
Giai đoạn này khối u được giới hạn trong buồng trứng hoặc ống dẫn trứng và không lây lan sang các cơ quan khác.
1A ung thư chỉ nằm trong một buồng trứng hoặc ống dẫn trứng
1B ung thư đã ở cả buồng trứng hoặc ống dẫn trứng nhưng không xa hơn.
1C có nghĩa là ung thư vẫn ở bên trong buồng trứng hoặc ống dẫn trứng và đã phá vỡ bề mặt của buồng trứng để đến bên ngoài.
4.2 Giai đoạn 2
Trong giai đoạn này tế bào ung thư đã bắt đầu lan rộng tới các cơ quan trong khung chậu.
2A có thể lan tới tử cung hoặc ống dẫn trứng
2B là khi nó đã phát triển thành các cơ quan lân cận khác như đại tràng, bàng quang hoặc trực tràng.
5. Mức độ nguy hiểm
Bệnh ung thư buồng trứng cũng giống như đại đa số các bệnh khác nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời từ giai đoạn 1 cơ hội sống trên 5 năm sau khi được phát hiện lên đến >80%.
Tỷ lệ này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như tình trạng sức khỏe, tuổi tác, tiền sử bệnh tật...
Nếu bệnh phát hiện muộn hơn tỷ lệ sống càng thấp.
Nếu được phát hiện ở:
Giai đoạn 2 tỷ lệ sống trên 5 năm còn khoảng 70%,
Giai đoạn 3 khoảng 30%.
Giai đoạn cuối tỷ lệ sống rất thấp, khối u đã di căn xa khả năng điều trị khó và hiệu quả thấp.
TIP
Việt nam tỷ sống sau 5 năm của bệnh nhân ung thư buồng trứng tùy thuộc vào việc phát hiện và điều trị, ở giai đoạn sớm có thể đến 80%, song giai đoạn 4 chỉ dưới 5%.
Ung thư buồng trứng là một trong những ung thư đường sinh dục thường gặp ở phụ nữ.
Tại Việt Nam, đây là bệnh phổ biến thứ 3 trong các bệnh ung thư phụ khoa, với gần 1.500 trường hợp mắc mới và hơn 900 người tử vong mỗi năm.
Hầu hết trường hợp xuất hiện ở độ tuổi mãn kinh, nhưng bệnh cũng có thể xảy ra ở độ tuổi trẻ hơn.
Ung thư buồng trứng phát hiện sớm có thể được kiểm soát, ngược lại ở giai đoạn muộn, tỷ lệ tử vong cao.
Tỷ sống sau 5 năm của bệnh nhân theo từng giai đoạn cụ thể,
Giai đoạn I là 70-80%,
Giai đoạn 2 là 50-60%,
Giai đoạn 3 là 15-20%,
Giai đoạn 4 chỉ dưới 5%.
Ung thư buồng trứng thường gây tử vong vì nó thường được chẩn đoán muộn.
Mô học phổ biến nhất - ung thư buồng trứng biểu mô huyết thanh mức độ cao - được coi là một thực thể lâm sàng đơn lẻ cùng với ung thư ống dẫn trứng và ung thư phúc mạc vì các đặc điểm lâm sàng chung.
Các triệu chứng thường không có hoặc không đặc hiệu.
Đánh giá thường bao gồm siêu âm, CT hoặc MRI, và đo nồng độ chỉ điểm khối u (ví dụ, kháng nguyên ung thư 125).
Chẩn đoán bằng phân tích mô học.
Giai đoạn dựa vào phẫu thuật.
Điều trị cần phải cắt bỏ tử cung, cắt buồng trứng-vòi trứng hai bên, cắt bỏ càng nhiều mô tổn thương càng tốt (cắt bỏ tế bào) và điều trị hoá chất sau đó.
Tại Hoa Kỳ, ung thư buồng trứng là bệnh ung thư phụ khoa phổ biến thứ hai (ảnh hưởng đến khoảng 1/70 phụ nữ).
Là nguyên nhân đứng hàng thứ năm gây tử vong liên quan đến ung thư ở phụ nữ và ở Hoa Kỳ, ước tính sẽ gây ra khoảng 19.710 ca mắc mới và 13.270 ca tử vong vào năm 2023.
Tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở các nước có nguồn lực cao.
Ung thư buồng trứng ảnh hưởng chính ở phụ nữ mãn kinh và sau mãn kinh.
Độ tuổi trung vị khi chẩn đoán là 63 tuổi (từ 55 tuổi đến 64 tuổi).
Nguy cơ ung thư buồng trứng tăng bởi
Trong gia đình có người thuộc thế hệ thứ nhất có ung thư buồng trứng
Tình trạng chưa sinh đẻ
Trì hoãn sinh con
Có kinh lần đầu sớm
Mãn kinh trễ
Tiền sử bản thân và gia đình có ung thư niêm mạc tử cung và ung thư đại tràng
Nguy cơ giảm bởi
Sử dụng thuốc tránh thai uống
Thay đổi dòng mầm trong gen ung thư vú 1 (BRCA1) và ung thư vú 2 (BRCA2) được xác định ở 14% đến 18% số bệnh nhân mắc ung thư buồng trứng huyết thanh mức độ cao; 3% có đột biến BRCA soma (BRCAm) hoặc bất hoạt do quá trình methyl hóa.
Thiếu hụt tái tổ hợp tương đồng (liên quan đến việc phục hồi tổn thương và sao chép DNA) được phát hiện ở khoảng một nửa số bệnh nhân mắc ung thư buồng trứng huyết thanh mức độ cao.
Các đột biến ở gen BRCA trội trên nhiễm sắc thể thường, nó có đi kèm nguy cơ phát triển ung thư vú trong cuộc đời chiếm 50 đến 85%.
Phụ nữ với BRCA1 đột biến có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng từ 20 đến 40%; nguy cơ của phụ nữ với BRCA2 đột biến là 11 đến 20%.
Tỷ lệ mắc các đột biến này ở những người có tổ tiên là người Do Thái Ashkenazi cao hơn so với dân số chung.
Các đột biến ở một số gen khác, bao gồm TP53, PTEN, STK11/LKB1, CDH1, CHEK2, ATM, MLH1 và MSH2, đã được kết hợp với ung thư vú di truyền và/hoặc ung thư buồng trứng.
Bệnh ung thư tế bào mầm thường xảy ra ở phụ nữ < 30 tuổi. Rối loạn mô sinh dục XY có xu hướng gây ra ung thư tế bào mầm của buồng trứng.
Ung thư buồng trứng là khối u ác tính có xuất phát từ một hoặc cả hai buồng trứng.
Theo thống kê tỷ lệ mắc bệnh ung thư buồng trứng khoảng 4,6/100.000 phụ nữ.
Bệnh có thể xảy ra ở nhiều độ tuổi tuy nhiên hay gặp nhất là phụ nữ trên 50.
Buồng trứng là một trong những cơ quan sinh sản của phụ nữ, mỗi phụ nữ gồm 2 buồng trứng, chúng nằm trong khung chậu và có kích thước tương đương một hạt thị.
Chức năng của buồng trứng là sản xuất ra trứng tham gia vào quá trình thụ tinh và sản xuất ra nội tiết tố nữ gồm estrogen và progesterone.
Hai loại nội tiết tố do buồng trứng tiết ra có tác động đến quá trình phát triển cơ thể người phụ nữ và liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt, mang thai.
Ung thư buồng trứng là khối u ác tính có xuất phát từ một hoặc cả hai buồng trứng.
Các tế bào ung thư là các tế bào bất thường chúng phát triển không theo sự kiểm soát của cơ thể và không tuân theo nhu cầu của cơ thể.
Các tế bào ung thư này có thể xâm lấn và phá hủy các mô, cơ quan xung quanh.
Chúng có thể di căn tới các cơ quan ở xa trong cơ thể và gây ung thư thứ phát tại cơ quan đó.
Các thể ung thư buồng trứng:
Ung thư biểu mô buồng trứng là các tế bào ung thư phát triển từ các tế bào trên bề mặt buồng trứng đây là loại hay gặp nhất
Ung thư tế bào mầm là ung thư xuất phát từ các tế bào sản xuất ra trứng, loại này ít gặp hơn ung thư biểu mô.
Ung thư buồng trứng xuất phát từ các tế bào mô nâng đỡ buồng trứng. Loại này cũng ít gặp
2. Nguyên nhân gây ung thư buồng trứng
Bệnh ung thư buồng trứng hiện nay vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân chính xác gây bệnh..
Các nghiên cứu cho thấy sự liên quan giữa các yếu tố sau làm tăng nguy cơ mắc bệnh:
Tiền sử gia đình: Những người có quan hệ huyết thống như mẹ, chị, em gái ruột mắc bệnh ung thư buồng trứng. Trong gia đình có người mắc ung thư vú, ung thư đại tràng cũng làm tăng nguy cơ mắc ung thư buồng trứng.
Tiền sử bản thân: Những phụ nữ có tiền sử mắc bệnh ung thư vú và ung thư đại tràng có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng cao hơn
Tuổi: Khả năng phát sinh ung thư buồng trứng tăng cao theo tuổi, hầu hết xuất hiện ở độ tuổi trên 50 và tăng cao ở những người trên 60 tuổi.
Mang thai và sinh con: Những phụ nữ đã từng mang thai và sinh con thì nguy cơ thấp hơn so với những người chưa từng sinh con. Sinh càng nhiều con thì nguy cơ càng thấp.
Sử dụng thuốc kích thích phóng noãn: Có thể làm tăng nhẹ nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Tuy nhiên là vẫn còn đang trong quá trình nghiên cứu.
Điều trị hormon thay thế: Điều trị hormon thay thế sau khi mãn kinh tăng nguy cơ.
Bột talc: Phụ nữ sử dụng bột talc nhiều ở cơ quan sinh dục làm tăng nguy cơ mắc ung thư buồng trứng.
3. Dấu hiệu ung thư buồng trứng
Bệnh ung thư buồng trứng cũng giống như đa phần các bệnh ung thư khác đều không có các triệu chứng hay dấu hiệu sớm, mà phải đến giai đoạn muộn mới biểu hiện rõ ràng,
Các dấu hiệu sớm của bệnh bao gồm:
Cảm giác khó chịu, đau ở vùng bụng dưới
Rối loạn tiêu hóa như buồn nôn, tiêu chảy hay táo bón
Thường xuyên đi tiểu do tăng áp lực đè ép vào bàng quang
Ăn kém, cảm giác đầy bụng kể cả sau một bữa ăn nhẹ
Tăng hoặc giảm cân không rõ nguyên nhân.
Chảy máu âm đạo bất thường sau mãn kinh, thay đổi bất thường trong chu kỳ kinh nguyệt.
Đau khi quan hệ tình dục.
4. Các giai đoạn phát triển
4.1 Giai đoạn 1
Giai đoạn này khối u được giới hạn trong buồng trứng hoặc ống dẫn trứng và không lây lan sang các cơ quan khác.
1A ung thư chỉ nằm trong một buồng trứng hoặc ống dẫn trứng
1B ung thư đã ở cả buồng trứng hoặc ống dẫn trứng nhưng không xa hơn.
1C có nghĩa là ung thư vẫn ở bên trong buồng trứng hoặc ống dẫn trứng và đã phá vỡ bề mặt của buồng trứng để đến bên ngoài.
4.2 Giai đoạn 2
Trong giai đoạn này tế bào ung thư đã bắt đầu lan rộng tới các cơ quan trong khung chậu.
2A có thể lan tới tử cung hoặc ống dẫn trứng
2B là khi nó đã phát triển thành các cơ quan lân cận khác như đại tràng, bàng quang hoặc trực tràng.
5. Mức độ nguy hiểm
Bệnh ung thư buồng trứng cũng giống như đại đa số các bệnh khác nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời từ giai đoạn 1 cơ hội sống trên 5 năm sau khi được phát hiện lên đến >80%.
Tỷ lệ này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như tình trạng sức khỏe, tuổi tác, tiền sử bệnh tật...
Nếu bệnh phát hiện muộn hơn tỷ lệ sống càng thấp.
Nếu được phát hiện ở:
Giai đoạn 2 tỷ lệ sống trên 5 năm còn khoảng 70%,
Giai đoạn 3 khoảng 30%.
Giai đoạn cuối tỷ lệ sống rất thấp, khối u đã di căn xa khả năng điều trị khó và hiệu quả thấp.
TIP
Việt nam tỷ sống sau 5 năm của bệnh nhân ung thư buồng trứng tùy thuộc vào việc phát hiện và điều trị, ở giai đoạn sớm có thể đến 80%, song giai đoạn 4 chỉ dưới 5%.
Ung thư buồng trứng là một trong những ung thư đường sinh dục thường gặp ở phụ nữ.
Tại Việt Nam, đây là bệnh phổ biến thứ 3 trong các bệnh ung thư phụ khoa, với gần 1.500 trường hợp mắc mới và hơn 900 người tử vong mỗi năm.
Hầu hết trường hợp xuất hiện ở độ tuổi mãn kinh, nhưng bệnh cũng có thể xảy ra ở độ tuổi trẻ hơn.
Ung thư buồng trứng phát hiện sớm có thể được kiểm soát, ngược lại ở giai đoạn muộn, tỷ lệ tử vong cao.
Tỷ sống sau 5 năm của bệnh nhân theo từng giai đoạn cụ thể,
Giai đoạn I là 70-80%,
Giai đoạn 2 là 50-60%,
Giai đoạn 3 là 15-20%,
Giai đoạn 4 chỉ dưới 5%.
Chỉ những khách hàng đã đăng nhập và mua sản phẩm này mới có thể đưa ra đánh giá.
Danh mục:
Bệnh ung thư
Từ khóa:
Ung thư buồng trứng
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.