U SỤN LẤP ĐẦY KHỚP HÁNG
U sụn lấp đầy khớp háng là bệnh lý khá hiếm gặp của u sụn màng hoạt dịch.
Bệnh có triệu chứng không rõ ràng nên việc chẩn đoán và điều trị có phần khó khăn.
U sụn lấp đầy khớp háng không phải là ung thư.
Đây là một tổn thương màng hoạt dịch lành tính hiếm gặp ở khớp.
Ngoài khớp háng, bệnh có thể gặp khớp gối, khớp khuỷu tay,…
Giải phẫu
Bao hoạt dịch iliopsoas là một trong những bao hoạt dịch lớn nhất trong cơ thể con người, thường nằm ở vị trí phía trước của khớp háng, phía trong dây chằng chậu đùi, phía sau dây chằng mu đùi và phía sau gân chậu.
Nó chứa chất bôi trơn và axit hyaluronic, giúp bảo vệ và duy trì tính toàn vẹn của bề mặt sụn khớp.
Vì sụn khớp không có mạch máu nội tại hoặc nguồn cung cấp bạch huyết, nên dựa vào các mô lân cận (xương dưới sụn và bao hoạt dịch) để cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết, duy trì sức khỏe của tế bào sụn và sụn khớp.
Dựa vào các mô lân cận này để loại bỏ các sản phẩm chuyển hóa tế bào sụn.
Vị trí của bao hoạt dịch iliopsoas khớp háng
U sụn lấp đầy khớp háng là một dạng của u sụn màng hoạt dịch khá hiếm gặp với xác suất mắc phải 1/100.000 người và tỷ lệ mắc bệnh ở nam cao hơn nữ.
U sụn màng hoạt dịch là một bệnh tăng sinh lành tính của màng hoạt dịch.
Được đặc trưng bởi những thay đổi bất thường về cấu trúc của các tế bào hoạt dịch, do đó tiết ra một chất nền sụn bao gồm collagen loại 2 kết hợp với tế bào viêm, fibrin, nguyên bào sợi,... để tạo thành các nốt sụn và các nốt tách ra khỏi màng hoạt dịch, tạo thành các khối u sụn.
U sụn hoạt dịch có thể xảy ra xung quanh bất kỳ khớp nào, nhưng thường thấy ở đầu gối, vai và khuỷu tay, trong khi các u sụn ở khớp háng ít gặp hơn.
Cơ chế bệnh sinh của bệnh u sụn hoạt dịch chưa được biết rõ nhưng có thể liên quan đến các bệnh về khớp như thoái hóa khớp, viêm khớp dạng thấp, viêm bao hoạt dịch khớp, chấn thương và khối u.
Nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa được biết rõ, có thể liên quan đến các bệnh về khớp
Dấu hiệu nhận biết u sụn lấp đầy khớp háng
U sụn lấp đầy khớp háng là tổn thương tương đối hiếm so với các khớp khác.
Bệnh thường chỉ giới hạn ở tổn thương trong khớp, hiếm khi xảy ra tổn thương ngoài khớp.
Bệnh nhân thường không có triệu chứng, chỉ khi các u sụn quá nhiều và/hoặc chèn ép mạch máu hoặc dây thần kinh, các cấu trúc xung quanh khớp háng thì có thể xuất hiện một số triệu chứng lâm sàng bao gồm đau khớp, sưng khớp, hạn chế vận động khớp, có thể xảy ra tràn dịch ở khớp và chèn ép các cấu trúc lân cận như ruột, đường tiết niệu, bàng quang, mạch máu ngoại vi, mạch máu đùi (có phù chân tay) và dây thần kinh xương đùi,...
Đôi khi bệnh nhân có thể sờ thấy các khối u sụn bằng tay.
Diễn biến của bệnh thường kéo dài, phát triển chậm và có thể kéo dài từ vài tháng đến vài năm.
U sụn lấp đầy khớp háng đôi khi phát triển thành ung thư
Nên nghi ngờ sự biến đổi ác tính nếu bệnh nhân có tiền sử lâm sàng lâu dài hoặc nếu khối phát triển nhanh chóng hoặc tái phát sau khi cắt bỏ và có bằng chứng về tình trạng xấu đi trên X quang.
Bệnh nhân thường không có triệu chứng hoặc đau, sưng khớp háng khi có sự chèn ép mô
Chẩn đoán cận lâm sàng
Việc chẩn đoán bệnh u sụn màng hoạt dịch khớp háng có thể khó khăn do tính chất không đặc hiệu của các triệu chứng.
Chụp X quang
Chụp X quang khung chậu đơn giản rất hữu ích trong việc phát hiện các rối loạn tiềm ẩn ở khớp háng, nhưng nếu u sụn chưa bị vôi hóa thì khó có thể chẩn đoán phân biệt với viêm bao hoạt dịch.
Thực hiện chụp CT hoặc MRI khi các triệu chứng không thể giải thích dễ dàng bằng các dấu hiệu X quang.
Chụp CT
Chụp CT có thể cho thấy các khối u sụn bị vôi hóa hoặc không bị vôi hóa và mật độ của chúng thường thấp hơn so với mô cơ.
Chụp X-quang các các u sụn bị vôi hóa cao có thể cho thấy kích thước tương đối đồng nhất, được bao quanh bởi các vòng mật độ cao không đều và các vùng mật độ thấp hơn bên trong.
MRI
MRI có độ phân giải mô mềm cao, có thể phát hiện các khối u sụn có hoặc không có vôi hóa, đồng thời có thể chẩn đoán sớm bệnh u sụn màng hoạt dịch và viêm bao hoạt dịch.
Điều trị
Sự phát triển của u sụn khớp háng gây ra nhiều khó khăn trong chẩn đoán và điều trị phẫu thuật. Phương pháp điều trị phụ thuộc vào số lượng, kích thước của u sụn, mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng, bệnh lý tiềm ẩn và sự hiện diện hay không có sự chèn ép cục bộ.
Đối với các u sụn nhỏ hơn, số lượng ít, không có triệu chứng, không ảnh hưởng chức năng vận động có thể điều trị duy trì hoặc không điều trị.
Hoặc có thể thực hiện chọc hút, dùng thuốc chống đông máu, nghỉ ngơi tại giường.
Tiêm thuốc chống viêm không steroid, gây tê cục bộ hoặc corticosteroid sau chọc hút bằng kim đã được báo cáo là một lựa chọn điều trị.
Đối với u sụn lấp đầy khớp háng, số lượng nhiều và có triệu chứng thì phẫu thuật cắt bỏ u sụn, kết hợp với cắt màng hoạt dịch là một lựa chọn thường được chấp nhận.
Trong điều trị bệnh u sụn khớp háng, việc cắt bỏ các u sụn là điều cần thiết để giảm đau, ngăn ngừa tái phát và trì hoãn sự tiến triển hoặc viêm khớp thứ phát.
Phẫu thuật mở hoặc nội soi được xem xét để cắt bỏ các u sụn.
Phẫu thuật mở cho phép tiếp cận hoàn toàn khớp để loại bỏ các u sụn và cắt bỏ toàn bộ màng hoạt dịch.
Phẫu thuật mở có nguy cơ xảy ra các biến chứng như hoại tử vô mạch chỏm xương đùi, gãy cổ xương đùi do thủ thuật và thời gian phục hồi chức năng kéo dài.
Phẫu thuật nội soi đã được áp dụng để điều trị các bệnh lý nội khớp bao gồm bệnh u sụn khớp háng.
So với phẫu thuật mở, phẫu thuật nội soi ít xâm lấn hơn, giảm thời gian nằm viện, ít đau sau mổ, ít biến chứng phẫu thuật và hồi phục nhanh hơn.
Nhưng việc cắt bỏ không hoàn toàn hoặc tái phát là mối lo ngại của phẫu thuật nội soi vì phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ màng hoạt dịch rất khó về mặt kỹ thuật.
Về mặt lâm sàng, u sụn lấp đầy khớp háng có biểu hiện chủ yếu là đau, sưng khớp háng hoặc sờ thấy các khối u rõ ràng.
Bệnh khởi phát, phát triển âm thầm và ngày càng nặng hơn.
Nếu không được điều trị, tổn thương cơ học của sụn khớp sẽ dẫn đến thoái hóa khớp hang.
Bệnh nhân mắc chứng u sụn khớp háng có triệu chứng nên can thiệp phẫu thuật và chọc hút bằng kim như một phương pháp điều trị lựa chọn ở những bệnh nhân không có triệu chứng mà không bị chèn ép mạch máu hoặc dây thần kinh.
Bệnh u sụn màng hoạt dịch tái phát sau nhiều năm, dẫn đến thoái hóa khớp háng nặng, buộc người bệnh phải thay khớp để khôi phục khả năng vận động.
TIP
U sụn màng hoạt dịch khớp háng là bệnh hiếm gặp với tỷ lệ mắc là 1/100.000 người, thường gặp ở nam giới nhiều hơn phụ nữ.
Bệnh xảy ra khi màng hoạt dịch nằm bên trong khớp tăng sinh bất thường, làm xuất hiện những hạt u sụn trong khớp háng của người bệnh.
Khi người bệnh chuyển động, những hạt u sụn mắc kẹt trong khớp này ma sát với các thành phần của khớp háng, đẩy nhanh tốc độ mài mòn khớp.
Từ đó dẫn đến thoái hóa khớp, gây đau và hạn chế sinh hoạt hàng ngày.
Đối với những trường hợp có số lượng hạt sụn ít, chưa gây thoái hóa khớp, người bệnh sẽ được nội soi loại bỏ u sụn.
Tuy nhiên, ở trường hợp sau lần phẫu thuật thứ nhất, bệnh tái phát với mức độ nghiêm trọng hơn, số lượng u sụn nhiều, thoái hóa khớp nặng, buộc phải mổ mở nhằm điều trị bệnh triệt để và khôi phục khả năng vận động.
Bác sĩ đã sử dụng kỹ thuật đường mổ trước ngoài để mở rộng khớp háng, quan sát rõ khu vực mổ, từ đó loại bỏ hoàn toàn u sụn, cắt lọc bao khớp và màng hoạt dịch bị viêm, ngăn ngừa nguy cơ tái phát bệnh. Sauk hi hạt u sụn đã được lấy ra khỏi cơ thể người bệnh, bác sĩ thực hiện thay khớp háng nhân tạo cho người bệnh.
Ngày đầu tiên sau phẫu thuật, người bệnh cho biết rất bất ngờ vì cảm thấy cơ thể nhẹ nhàng hẳn, đi lại thoải mái, chỉ còn đau nhẹ tại vết mổ, nguyên nhân là do các hạt u sụn đã được loại bỏ, giải phóng khớp háng khỏi tình trạng kẹt khớp gây đau.
Vì sử dụng đường mổ trước ngoài nên các khối cơ và bao khớp phía sau khớp háng của người bệnh được bảo tồn, giúp hạn chế tổn thương, giảm nguy cơ chảy máu và trật khớp sau phẫu thuật, người bệnh phục hồi nhanh hơn.
Lưu ý:
Khớp háng là một trong những khớp lớn nhất, là điểm trụ chống đỡ trọng lượng cơ thể và hấp thụ lực tác động lên cơ thể khi vận động.
Khi khớp háng bị suy yếu bởi bất kỳ nguyên nhân gì như thoái hóa, hoại tử chỏm xương đùi, u sụn màng hoạt dịch… những chức năng trên cũng mất dần, làm người bệnh gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày, thậm chí là tàn phế.
U xương sụn hoạt dịch nguyên phát của khớp háng là một tình trạng hiếm gặp.
Bệnh này đặc trưng bởi sự hiện diện của nhiều thể lỏng lẻo trong khớp và có thể dẫn đến các triệu chứng cơ học, thậm chí gây ra sự thay đổi thoái hóa.
Điều trị phẫu thuật được chỉ định cho u xương sụn hoạt dịch của khớp háng.
Các phương pháp tiếp cận tối ưu để quản lý phẫu thuật thành công vẫn còn gây tranh cãi.
Báo cáo trường hợp:
Báo cáo hai trường hợp u xương sụn hoạt dịch nguyên phát của khớp háng, trong đó đã thực hiện phẫu thuật mở nhỏ có hỗ trợ nội soi khớp.
Phương pháp tiếp cận từ phía sau đã được sử dụng và phẫu thuật cắt khớp tối thiểu đã được thực hiện với việc bảo tồn phần bổ sung có máu của đầu xương đùi.
Với sự hỗ trợ của ống soi khớp, phẫu thuật cắt màng hoạt dịch, cắt lọc và loại bỏ phần rời đã được hoàn thành mà không làm trật khớp đầu xương đùi.
Thời gian theo dõi lần lượt là 5 năm và 2,5 năm.
Không có biến chứng nào trong hoặc sau phẫu thuật.
Tại lần theo dõi gần nhất, bệnh nhân vẫn không có triệu chứng và không có bằng chứng tái phát trên phim chụp X quang.
Kết luận:
Phương pháp mini-open hỗ trợ nội soi có thể đạt được mục tiêu cắt bỏ màng hoạt dịch, cắt lọc và loại bỏ phần rời rạc, do đó làm giảm tỷ lệ tái phát.
Phương pháp này tránh được tình trạng trật khớp đầu xương đùi, do đó làm giảm khả năng xảy ra biến chứng phẫu thuật.
Điểm lưu ý:
Kỹ thuật điều trị u xương sụn hoạt dịch ở khớp háng có thể đạt được mục tiêu cắt bỏ màng hoạt dịch rộng rãi, loại bỏ hoàn toàn phần xương lỏng lẻo và tránh trật khớp đầu xương đùi, do đó làm giảm tỷ lệ tái phát và biến chứng phẫu thuật.
U XƯƠNG SỤN HOẠT DỊCH NGUYÊN PHÁT
U xương sụn hoạt dịch nguyên phát là một rối loạn lành tính hiếm gặp của màng hoạt dịch, và quá trình chuyển dạng dị sản dẫn đến sự hình thành các thể xương sụn trong khoang khớp.
Màng hoạt dịch bị bệnh và các thể lỏng lẻo trong khớp có thể dần dần gây tổn thương sụn khớp trong nhiều năm trước khi bệnh được chẩn đoán.
Điều trị tình trạng này về cơ bản là cắt lọc thích hợp, loại bỏ các thể lỏng lẻo và gần như cắt bỏ toàn bộ màng hoạt dịch.
Đầu gối là khớp thường bị ảnh hưởng nhất và tình trạng liên quan đến khớp háng tương đối hiếm.
U xương sụn hoạt dịch khớp háng có thể được điều trị thích hợp bằng phẫu thuật nội soi.
Việc xử lý phẫu thuật u xương sụn hoạt dịch khớp háng khó khăn hơn nhiều do giải phẫu đặc thù.
Phẫu thuật mở khớp với trật đầu xương đùi để lộ toàn bộ khớp háng hoặc phương pháp nội soi khớp háng và thực hiện phẫu thuật đã được báo cáo.
Phương pháp tối ưu để xử lý thành công tình trạng này vẫn còn gây tranh cãi.
Nguy cơ hoại tử vô mạch do trật đầu xương đùi trong quá trình phẫu thuật luôn tồn tại.
Việc cắt lọc không đầy đủ và tỷ lệ tái phát tương đối cao là những mối quan tâm chính của phẫu thuật nội soi khớp háng.
Phương pháp tiếp cận phía sau với việc bảo tồn nhánh sâu của động mạch vành đùi trong, phẫu thuật cắt khớp hạn chế mà không trật khớp đầu xương đùi, sử dụng ống soi khớp để thực hiện cắt màng hoạt dịch và loại bỏ vật thể rời là phương pháp điều trị cho tình trạng cụ thể này.
Báo cáo hai trường hợp u sụn hoạt dịch nguyên phát của khớp háng kèm theo mô tả về diễn biến bệnh, biểu hiện trên phim chụp X-quang, xử trí phẫu thuật và kết quả theo dõi.
Báo cáo trường hợp
Trường hợp I
Một nam giới 41 tuổi không có tiền sử chấn thương trước đó đã bị đau hông phải gây tàn tật trong hơn 3 năm.
Trước khi đến viện, bệnh nhân đã được điều trị bảo tồn bao gồm thuốc giảm đau và phục hồi chức năng cho các hiện tượng về căng cơ; tuy nhiên, cơn đau trở nên tồi tệ hơn.
Khám thực thể khớp háng phải cho thấy xoay trong, dạng và khép hạn chế.
Các vật thể lỏng lẻo vôi hóa trong khớp lấp đầy khớp háng đã được nhìn thấy trên phim chụp X-quang thường quy.
Chụp cộng hưởng từ cho thấy sự mở rộng của bao khớp chứa nhiều vật thể lỏng lẻo xung quanh cổ xương đùi.
Phẫu thuật cắt màng hoạt dịch và loại bỏ vật thể lỏng lẻo đã được thực hiện thông qua phẫu thuật cắt khớp háng hạn chế và với sự hỗ trợ của ống soi khớp.
Nghiên cứu mô học cho thấy những phát hiện đặc trưng của bệnh u xương sụn hoạt dịch giai đoạn II theo Milgram.
Bệnh nhân đã được theo dõi trong 5 năm.
Về mặt chủ quan, bệnh nhân không có khiếu nại và có thể cử động hoàn toàn khớp háng đã phẫu thuật. Điểm số hông của Harris đã cải thiện từ 60 điểm trước phẫu thuật tại thời điểm theo dõi gần đây nhất.
Bệnh nhân chơi bóng chuyền và bóng mềm thường xuyên mà không có vấn đề gì.
Phim chụp X-quang theo dõi mới nhất cho thấy khớp hông phải rõ ràng không có bằng chứng về viêm xương khớp hoặc hoại tử vô mạch ở đầu xương đùi
Trường hợp II
Một cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp 32 tuổi không có tiền sử chấn thương trước đó đã bị đau khớp hông trái trong hơn 3 năm.
Cơn đau dữ dội khi xoay khớp và hiệu suất của anh ấy giảm đáng kể.
Khám sức khỏe chỉ có thể phát hiện một số điểm yếu của cơ mông.
Chụp X-quang không chuẩn bị có vẻ bình thường.
Tuy nhiên, nhiều vật thể lỏng lẻo đã được tìm thấy bên dưới đầu xương đùi ở khớp hông trái qua các nghiên cứu chụp cộng hưởng từ.
Bệnh nhân đã được phẫu thuật khớp hông trái.
Bệnh lý xương sụn hoạt dịch giai đoạn II của Milgram đã được xác nhận bằng xét nghiệm bệnh lý.
Bệnh nhân này đã tiếp tục ném bóng 10 tháng sau ca phẫu thuật và đã trở lại mức độ ném bóng chuyên nghiệp như trước khi bị chấn thương.
Đã 2,5 năm trôi qua kể từ ca phẫu thuật khớp hông. Về mặt chủ quan, khớp hông có cảm giác bình thường.
Điểm số hông của Harris là 44 điểm trước phẫu thuật và đã cải thiện lên 98 điểm trong lần theo dõi gần đây nhất.
Phim chụp X-quang mới nhất không có bằng chứng nào về thoái hóa hoặc hoại tử vô mạch ở đầu xương đùi.
Kỹ thuật phẫu thuật
Bệnh nhân được đặt ở tư thế nằm nghiêng. Rạch Kocher-Langenbeck.
Đầu tiên, gân cơ vuông đùi được xác định và bảo vệ, sau đó gân gemelli, cơ bịt kín bên trong và gân cơ lê được chia cách khoảng 2cm từ vị trí bám xương của chúng để tiếp cận bao khớp háng.
Bao khớp được mở bằng cách rạch một đường nhỏ hình chữ T. Tất cả các dị vật lỏng lẻo có thể tiếp cận và màng hoạt dịch tăng sinh đều được loại bỏ trước tiên dưới sự quan sát trực tiếp.
Kéo bằng tay được áp dụng và đầu tiên, ống soi khớp được đưa qua lỗ trên vào khớp háng; dịch chảy vào được thiết lập song song với bao ống soi.
Dao cạo nội soi khớp có dẫn lưu hút và kẹp được đưa vào vị trí phụ thuộc phía dưới của khớp háng.
Các dị vật lỏng lẻo nhỏ được hút ra và các dị vật lỏng lẻo lớn hơn còn lại được lấy ra bằng dao cạo nội soi.
Phẫu thuật cắt màng hoạt dịch được thực hiện hoàn toàn nhất có thể bằng cách sử dụng dao cạo nội soi.
Người ta đặc biệt cẩn thận không làm hỏng dây chằng tròn, mặc dù các vật thể lỏng lẻo khó loại bỏ nhất được tìm thấy gần đó hoặc gắn vào đó.
Sau khi hoàn thành công việc ở khớp háng dưới, ống soi và vị trí của dụng cụ được chuyển đổi để làm sạch các phần còn lại của khớp háng.
Bao khớp được đóng lại bằng chỉ 1—Vicryl.
Một ống dẫn lưu được đưa vào và sau đó các cơ xoay ngoài được sửa chữa bằng chỉ khâu Vicryl 1-0 ngắt quãng.
THẢO LUẬN
Vì không có triệu chứng và dấu hiệu cụ thể và do hiếm gặp nên chẩn đoán bệnh u xương sụn hoạt dịch khớp háng thường bị bỏ sót hoặc trì hoãn.
Chụp X-quang thường quy là công cụ nghiên cứu ban đầu.
Không thể nhìn thấy các vật thể rời rạc trên phim chụp X-quang thường quy trừ khi có vôi hóa hoặc cốt hóa.
Chụp cộng hưởng từ là công cụ chẩn đoán hữu ích nhất cho căn bệnh này.
Lợi ích của chụp cộng hưởng từ là chẩn đoán sớm bệnh và đánh giá các tổn thương ngoài khớp.
Cắt màng hoạt dịch và cắt bỏ vật thể rời rạc là phương pháp điều trị được khuyến nghị.
Hầu hết các tác giả trong tài liệu đều ủng hộ ý tưởng cắt màng hoạt dịch đầy đủ để giảm tỷ lệ tái phát bệnh.
Có một số phương pháp để đạt được mục tiêu này.
Cắt màng hoạt dịch nội soi khớp háng đòi hỏi kỹ thuật cao và khó tiếp cận một số vùng mà thường không thể cắt màng hoạt dịch rộng rãi.
Tỷ lệ tái phát sau phẫu thuật nội soi cao, dao động từ 7,1% đến 39%.
Trong báo cáo của Boyer và Dorfmann, 23 trong số 111 bệnh nhân (20,7%) cần nhiều hơn một lần nội soi khớp; 42 trong số họ (37,8%) cần phẫu thuật mở.
Nếu bệnh được điều trị chỉ bằng nội soi khớp, 18 (16,2%) trong số 69 bệnh nhân cần nội soi khớp thêm.
Năm bệnh nhân đã được nội soi khớp sửa đổi trong loạt nghiên cứu của Marchie và cộng sự.
Nội soi khớp háng được coi là hữu ích nhất khi các vật thể lỏng lẻo <10 mm.
Phẫu thuật mở có hoặc không có trật khớp đầu xương đùi là một phương pháp điều trị khác.
Nếu đầu xương đùi không bị trật khớp, việc cắt bỏ hoàn toàn màng hoạt dịch và loại bỏ vật thể lỏng lẻo không dễ thực hiện hoặc gần như là một nhiệm vụ bất khả thi.
Nếu đầu xương đùi bị trật khớp, luôn có nỗi lo sợ về các biến chứng như hoại tử vô mạch ở đầu xương đùi, viêm xương khớp, cố định mấu chuyển lớn không thành công hoặc cốt hóa lạc chỗ.
Trong loạt nghiên cứu của Lim và cộng sự, có hai trường hợp tái phát bệnh có triệu chứng ở mười ba khớp háng chỉ được điều trị bằng phẫu thuật cắt khớp.
Không ghi nhận trường hợp tái phát nào ở 21 bệnh nhân được điều trị trật khớp đầu xương đùi, nhưng tỷ lệ biến chứng phẫu thuật cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh nhân này.
Ganzet và cộng sự đã phát triển một kỹ thuật phẫu thuật để trật khớp đầu xương đùi mà không có nguy cơ hoại tử vô mạch.
Nhánh sâu của động mạch đùi trong ở phía trước gân cơ vuông đùi, nguồn cung cấp máu chính cho đầu xương đùi, được bảo vệ và biến chứng do thầy thuốc gây ra đáng lo ngại nhất của phẫu thuật cắt khớp sau, hoại tử vô mạch sau phẫu thuật đầu xương đùi, có thể được ngăn ngừa.
Ở tám bệnh nhân mắc bệnh này được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật này, không phát hiện thấy tái phát hoặc hoại tử vô mạch khi theo dõi.
Muốn đạt được mục tiêu cắt màng hoạt dịch rộng rãi, loại bỏ hoàn toàn dị vật lỏng lẻo và ngăn ngừa bệnh tái phát.
Bảo vệ nhánh sâu của động mạch đùi trong và tránh làm tổn thương dây chằng tròn.
Đầu dây thần kinh của dây chằng này có chức năng cảm giác bản thể tương tự như dây chằng chéo của khớp gối, bằng cách bảo tồn dây chằng, có thể đạt được sự phục hồi chức năng tốt hơn.
Có thể thử thực hiện phẫu thuật bằng phương pháp cắt khớp mini và sử dụng máy soi khớp để làm sạch khớp háng.
Các kết quả theo dõi đã chứng minh phẫu thuật mở mini hỗ trợ nội soi khớp háng đối với bệnh u sụn hoạt dịch khớp háng là phương pháp khả thi và hiệu quả.
Kết luận
Điều trị phẫu thuật được chỉ định cho bệnh u xương sụn hoạt dịch ở khớp háng.
Kỹ thuật cắt lọc mở nhỏ hỗ trợ nội soi đã đạt được mục tiêu cắt bỏ màng hoạt dịch rộng rãi và loại bỏ hoàn toàn phần rời rạc.
Bảo tồn dây chằng tròn để phục hồi chức năng tốt hơn.
Kết quả theo dõi rất khả quan.
Đây là một giải pháp thay thế khả thi cho các bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình để điều trị căn bệnh hiếm gặp này.
Thông điệp lâm sàng
Kỹ thuật mở nhỏ hỗ trợ nội soi cho bệnh u xương sụn hoạt dịch khớp háng có thể đạt được mục tiêu cắt bỏ màng hoạt dịch rộng rãi và loại bỏ hoàn toàn phần rời rạc, do đó làm giảm tỷ lệ tái phát.
Phương pháp này có thể tránh trật khớp đầu xương đùi, do đó làm giảm sự xuất hiện của các biến chứng phẫu thuật.
U sụn lấp đầy khớp háng là bệnh lý khá hiếm gặp của u sụn màng hoạt dịch.
Bệnh có triệu chứng không rõ ràng nên việc chẩn đoán và điều trị có phần khó khăn.
U sụn lấp đầy khớp háng không phải là ung thư.
Đây là một tổn thương màng hoạt dịch lành tính hiếm gặp ở khớp.
Ngoài khớp háng, bệnh có thể gặp khớp gối, khớp khuỷu tay,…
Giải phẫu
Bao hoạt dịch iliopsoas là một trong những bao hoạt dịch lớn nhất trong cơ thể con người, thường nằm ở vị trí phía trước của khớp háng, phía trong dây chằng chậu đùi, phía sau dây chằng mu đùi và phía sau gân chậu.
Nó chứa chất bôi trơn và axit hyaluronic, giúp bảo vệ và duy trì tính toàn vẹn của bề mặt sụn khớp.
Vì sụn khớp không có mạch máu nội tại hoặc nguồn cung cấp bạch huyết, nên dựa vào các mô lân cận (xương dưới sụn và bao hoạt dịch) để cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết, duy trì sức khỏe của tế bào sụn và sụn khớp.
Dựa vào các mô lân cận này để loại bỏ các sản phẩm chuyển hóa tế bào sụn.
Vị trí của bao hoạt dịch iliopsoas khớp háng
U sụn lấp đầy khớp háng là một dạng của u sụn màng hoạt dịch khá hiếm gặp với xác suất mắc phải 1/100.000 người và tỷ lệ mắc bệnh ở nam cao hơn nữ.
U sụn màng hoạt dịch là một bệnh tăng sinh lành tính của màng hoạt dịch.
Được đặc trưng bởi những thay đổi bất thường về cấu trúc của các tế bào hoạt dịch, do đó tiết ra một chất nền sụn bao gồm collagen loại 2 kết hợp với tế bào viêm, fibrin, nguyên bào sợi,... để tạo thành các nốt sụn và các nốt tách ra khỏi màng hoạt dịch, tạo thành các khối u sụn.
U sụn hoạt dịch có thể xảy ra xung quanh bất kỳ khớp nào, nhưng thường thấy ở đầu gối, vai và khuỷu tay, trong khi các u sụn ở khớp háng ít gặp hơn.
Cơ chế bệnh sinh của bệnh u sụn hoạt dịch chưa được biết rõ nhưng có thể liên quan đến các bệnh về khớp như thoái hóa khớp, viêm khớp dạng thấp, viêm bao hoạt dịch khớp, chấn thương và khối u.
Nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa được biết rõ, có thể liên quan đến các bệnh về khớp
Dấu hiệu nhận biết u sụn lấp đầy khớp háng
U sụn lấp đầy khớp háng là tổn thương tương đối hiếm so với các khớp khác.
Bệnh thường chỉ giới hạn ở tổn thương trong khớp, hiếm khi xảy ra tổn thương ngoài khớp.
Bệnh nhân thường không có triệu chứng, chỉ khi các u sụn quá nhiều và/hoặc chèn ép mạch máu hoặc dây thần kinh, các cấu trúc xung quanh khớp háng thì có thể xuất hiện một số triệu chứng lâm sàng bao gồm đau khớp, sưng khớp, hạn chế vận động khớp, có thể xảy ra tràn dịch ở khớp và chèn ép các cấu trúc lân cận như ruột, đường tiết niệu, bàng quang, mạch máu ngoại vi, mạch máu đùi (có phù chân tay) và dây thần kinh xương đùi,...
Đôi khi bệnh nhân có thể sờ thấy các khối u sụn bằng tay.
Diễn biến của bệnh thường kéo dài, phát triển chậm và có thể kéo dài từ vài tháng đến vài năm.
U sụn lấp đầy khớp háng đôi khi phát triển thành ung thư
Nên nghi ngờ sự biến đổi ác tính nếu bệnh nhân có tiền sử lâm sàng lâu dài hoặc nếu khối phát triển nhanh chóng hoặc tái phát sau khi cắt bỏ và có bằng chứng về tình trạng xấu đi trên X quang.
Bệnh nhân thường không có triệu chứng hoặc đau, sưng khớp háng khi có sự chèn ép mô
Chẩn đoán cận lâm sàng
Việc chẩn đoán bệnh u sụn màng hoạt dịch khớp háng có thể khó khăn do tính chất không đặc hiệu của các triệu chứng.
Chụp X quang
Chụp X quang khung chậu đơn giản rất hữu ích trong việc phát hiện các rối loạn tiềm ẩn ở khớp háng, nhưng nếu u sụn chưa bị vôi hóa thì khó có thể chẩn đoán phân biệt với viêm bao hoạt dịch.
Thực hiện chụp CT hoặc MRI khi các triệu chứng không thể giải thích dễ dàng bằng các dấu hiệu X quang.
Chụp CT
Chụp CT có thể cho thấy các khối u sụn bị vôi hóa hoặc không bị vôi hóa và mật độ của chúng thường thấp hơn so với mô cơ.
Chụp X-quang các các u sụn bị vôi hóa cao có thể cho thấy kích thước tương đối đồng nhất, được bao quanh bởi các vòng mật độ cao không đều và các vùng mật độ thấp hơn bên trong.
MRI
MRI có độ phân giải mô mềm cao, có thể phát hiện các khối u sụn có hoặc không có vôi hóa, đồng thời có thể chẩn đoán sớm bệnh u sụn màng hoạt dịch và viêm bao hoạt dịch.
Điều trị
Sự phát triển của u sụn khớp háng gây ra nhiều khó khăn trong chẩn đoán và điều trị phẫu thuật. Phương pháp điều trị phụ thuộc vào số lượng, kích thước của u sụn, mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng, bệnh lý tiềm ẩn và sự hiện diện hay không có sự chèn ép cục bộ.
Đối với các u sụn nhỏ hơn, số lượng ít, không có triệu chứng, không ảnh hưởng chức năng vận động có thể điều trị duy trì hoặc không điều trị.
Hoặc có thể thực hiện chọc hút, dùng thuốc chống đông máu, nghỉ ngơi tại giường.
Tiêm thuốc chống viêm không steroid, gây tê cục bộ hoặc corticosteroid sau chọc hút bằng kim đã được báo cáo là một lựa chọn điều trị.
Đối với u sụn lấp đầy khớp háng, số lượng nhiều và có triệu chứng thì phẫu thuật cắt bỏ u sụn, kết hợp với cắt màng hoạt dịch là một lựa chọn thường được chấp nhận.
Trong điều trị bệnh u sụn khớp háng, việc cắt bỏ các u sụn là điều cần thiết để giảm đau, ngăn ngừa tái phát và trì hoãn sự tiến triển hoặc viêm khớp thứ phát.
Phẫu thuật mở hoặc nội soi được xem xét để cắt bỏ các u sụn.
Phẫu thuật mở cho phép tiếp cận hoàn toàn khớp để loại bỏ các u sụn và cắt bỏ toàn bộ màng hoạt dịch.
Phẫu thuật mở có nguy cơ xảy ra các biến chứng như hoại tử vô mạch chỏm xương đùi, gãy cổ xương đùi do thủ thuật và thời gian phục hồi chức năng kéo dài.
Phẫu thuật nội soi đã được áp dụng để điều trị các bệnh lý nội khớp bao gồm bệnh u sụn khớp háng.
So với phẫu thuật mở, phẫu thuật nội soi ít xâm lấn hơn, giảm thời gian nằm viện, ít đau sau mổ, ít biến chứng phẫu thuật và hồi phục nhanh hơn.
Nhưng việc cắt bỏ không hoàn toàn hoặc tái phát là mối lo ngại của phẫu thuật nội soi vì phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ màng hoạt dịch rất khó về mặt kỹ thuật.
Về mặt lâm sàng, u sụn lấp đầy khớp háng có biểu hiện chủ yếu là đau, sưng khớp háng hoặc sờ thấy các khối u rõ ràng.
Bệnh khởi phát, phát triển âm thầm và ngày càng nặng hơn.
Nếu không được điều trị, tổn thương cơ học của sụn khớp sẽ dẫn đến thoái hóa khớp hang.
Bệnh nhân mắc chứng u sụn khớp háng có triệu chứng nên can thiệp phẫu thuật và chọc hút bằng kim như một phương pháp điều trị lựa chọn ở những bệnh nhân không có triệu chứng mà không bị chèn ép mạch máu hoặc dây thần kinh.
Bệnh u sụn màng hoạt dịch tái phát sau nhiều năm, dẫn đến thoái hóa khớp háng nặng, buộc người bệnh phải thay khớp để khôi phục khả năng vận động.
TIP
U sụn màng hoạt dịch khớp háng là bệnh hiếm gặp với tỷ lệ mắc là 1/100.000 người, thường gặp ở nam giới nhiều hơn phụ nữ.
Bệnh xảy ra khi màng hoạt dịch nằm bên trong khớp tăng sinh bất thường, làm xuất hiện những hạt u sụn trong khớp háng của người bệnh.
Khi người bệnh chuyển động, những hạt u sụn mắc kẹt trong khớp này ma sát với các thành phần của khớp háng, đẩy nhanh tốc độ mài mòn khớp.
Từ đó dẫn đến thoái hóa khớp, gây đau và hạn chế sinh hoạt hàng ngày.
Đối với những trường hợp có số lượng hạt sụn ít, chưa gây thoái hóa khớp, người bệnh sẽ được nội soi loại bỏ u sụn.
Tuy nhiên, ở trường hợp sau lần phẫu thuật thứ nhất, bệnh tái phát với mức độ nghiêm trọng hơn, số lượng u sụn nhiều, thoái hóa khớp nặng, buộc phải mổ mở nhằm điều trị bệnh triệt để và khôi phục khả năng vận động.
Bác sĩ đã sử dụng kỹ thuật đường mổ trước ngoài để mở rộng khớp háng, quan sát rõ khu vực mổ, từ đó loại bỏ hoàn toàn u sụn, cắt lọc bao khớp và màng hoạt dịch bị viêm, ngăn ngừa nguy cơ tái phát bệnh. Sauk hi hạt u sụn đã được lấy ra khỏi cơ thể người bệnh, bác sĩ thực hiện thay khớp háng nhân tạo cho người bệnh.
Ngày đầu tiên sau phẫu thuật, người bệnh cho biết rất bất ngờ vì cảm thấy cơ thể nhẹ nhàng hẳn, đi lại thoải mái, chỉ còn đau nhẹ tại vết mổ, nguyên nhân là do các hạt u sụn đã được loại bỏ, giải phóng khớp háng khỏi tình trạng kẹt khớp gây đau.
Vì sử dụng đường mổ trước ngoài nên các khối cơ và bao khớp phía sau khớp háng của người bệnh được bảo tồn, giúp hạn chế tổn thương, giảm nguy cơ chảy máu và trật khớp sau phẫu thuật, người bệnh phục hồi nhanh hơn.
Lưu ý:
Khớp háng là một trong những khớp lớn nhất, là điểm trụ chống đỡ trọng lượng cơ thể và hấp thụ lực tác động lên cơ thể khi vận động.
Khi khớp háng bị suy yếu bởi bất kỳ nguyên nhân gì như thoái hóa, hoại tử chỏm xương đùi, u sụn màng hoạt dịch… những chức năng trên cũng mất dần, làm người bệnh gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày, thậm chí là tàn phế.
U xương sụn hoạt dịch nguyên phát của khớp háng là một tình trạng hiếm gặp.
Bệnh này đặc trưng bởi sự hiện diện của nhiều thể lỏng lẻo trong khớp và có thể dẫn đến các triệu chứng cơ học, thậm chí gây ra sự thay đổi thoái hóa.
Điều trị phẫu thuật được chỉ định cho u xương sụn hoạt dịch của khớp háng.
Các phương pháp tiếp cận tối ưu để quản lý phẫu thuật thành công vẫn còn gây tranh cãi.
Báo cáo trường hợp:
Báo cáo hai trường hợp u xương sụn hoạt dịch nguyên phát của khớp háng, trong đó đã thực hiện phẫu thuật mở nhỏ có hỗ trợ nội soi khớp.
Phương pháp tiếp cận từ phía sau đã được sử dụng và phẫu thuật cắt khớp tối thiểu đã được thực hiện với việc bảo tồn phần bổ sung có máu của đầu xương đùi.
Với sự hỗ trợ của ống soi khớp, phẫu thuật cắt màng hoạt dịch, cắt lọc và loại bỏ phần rời đã được hoàn thành mà không làm trật khớp đầu xương đùi.
Thời gian theo dõi lần lượt là 5 năm và 2,5 năm.
Không có biến chứng nào trong hoặc sau phẫu thuật.
Tại lần theo dõi gần nhất, bệnh nhân vẫn không có triệu chứng và không có bằng chứng tái phát trên phim chụp X quang.
Kết luận:
Phương pháp mini-open hỗ trợ nội soi có thể đạt được mục tiêu cắt bỏ màng hoạt dịch, cắt lọc và loại bỏ phần rời rạc, do đó làm giảm tỷ lệ tái phát.
Phương pháp này tránh được tình trạng trật khớp đầu xương đùi, do đó làm giảm khả năng xảy ra biến chứng phẫu thuật.
Điểm lưu ý:
Kỹ thuật điều trị u xương sụn hoạt dịch ở khớp háng có thể đạt được mục tiêu cắt bỏ màng hoạt dịch rộng rãi, loại bỏ hoàn toàn phần xương lỏng lẻo và tránh trật khớp đầu xương đùi, do đó làm giảm tỷ lệ tái phát và biến chứng phẫu thuật.
U XƯƠNG SỤN HOẠT DỊCH NGUYÊN PHÁT
U xương sụn hoạt dịch nguyên phát là một rối loạn lành tính hiếm gặp của màng hoạt dịch, và quá trình chuyển dạng dị sản dẫn đến sự hình thành các thể xương sụn trong khoang khớp.
Màng hoạt dịch bị bệnh và các thể lỏng lẻo trong khớp có thể dần dần gây tổn thương sụn khớp trong nhiều năm trước khi bệnh được chẩn đoán.
Điều trị tình trạng này về cơ bản là cắt lọc thích hợp, loại bỏ các thể lỏng lẻo và gần như cắt bỏ toàn bộ màng hoạt dịch.
Đầu gối là khớp thường bị ảnh hưởng nhất và tình trạng liên quan đến khớp háng tương đối hiếm.
U xương sụn hoạt dịch khớp háng có thể được điều trị thích hợp bằng phẫu thuật nội soi.
Việc xử lý phẫu thuật u xương sụn hoạt dịch khớp háng khó khăn hơn nhiều do giải phẫu đặc thù.
Phẫu thuật mở khớp với trật đầu xương đùi để lộ toàn bộ khớp háng hoặc phương pháp nội soi khớp háng và thực hiện phẫu thuật đã được báo cáo.
Phương pháp tối ưu để xử lý thành công tình trạng này vẫn còn gây tranh cãi.
Nguy cơ hoại tử vô mạch do trật đầu xương đùi trong quá trình phẫu thuật luôn tồn tại.
Việc cắt lọc không đầy đủ và tỷ lệ tái phát tương đối cao là những mối quan tâm chính của phẫu thuật nội soi khớp háng.
Phương pháp tiếp cận phía sau với việc bảo tồn nhánh sâu của động mạch vành đùi trong, phẫu thuật cắt khớp hạn chế mà không trật khớp đầu xương đùi, sử dụng ống soi khớp để thực hiện cắt màng hoạt dịch và loại bỏ vật thể rời là phương pháp điều trị cho tình trạng cụ thể này.
Báo cáo hai trường hợp u sụn hoạt dịch nguyên phát của khớp háng kèm theo mô tả về diễn biến bệnh, biểu hiện trên phim chụp X-quang, xử trí phẫu thuật và kết quả theo dõi.
Báo cáo trường hợp
Trường hợp I
Một nam giới 41 tuổi không có tiền sử chấn thương trước đó đã bị đau hông phải gây tàn tật trong hơn 3 năm.
Trước khi đến viện, bệnh nhân đã được điều trị bảo tồn bao gồm thuốc giảm đau và phục hồi chức năng cho các hiện tượng về căng cơ; tuy nhiên, cơn đau trở nên tồi tệ hơn.
Khám thực thể khớp háng phải cho thấy xoay trong, dạng và khép hạn chế.
Các vật thể lỏng lẻo vôi hóa trong khớp lấp đầy khớp háng đã được nhìn thấy trên phim chụp X-quang thường quy.
Chụp cộng hưởng từ cho thấy sự mở rộng của bao khớp chứa nhiều vật thể lỏng lẻo xung quanh cổ xương đùi.
Phẫu thuật cắt màng hoạt dịch và loại bỏ vật thể lỏng lẻo đã được thực hiện thông qua phẫu thuật cắt khớp háng hạn chế và với sự hỗ trợ của ống soi khớp.
Nghiên cứu mô học cho thấy những phát hiện đặc trưng của bệnh u xương sụn hoạt dịch giai đoạn II theo Milgram.
Bệnh nhân đã được theo dõi trong 5 năm.
Về mặt chủ quan, bệnh nhân không có khiếu nại và có thể cử động hoàn toàn khớp háng đã phẫu thuật. Điểm số hông của Harris đã cải thiện từ 60 điểm trước phẫu thuật tại thời điểm theo dõi gần đây nhất.
Bệnh nhân chơi bóng chuyền và bóng mềm thường xuyên mà không có vấn đề gì.
Phim chụp X-quang theo dõi mới nhất cho thấy khớp hông phải rõ ràng không có bằng chứng về viêm xương khớp hoặc hoại tử vô mạch ở đầu xương đùi
Trường hợp II
Một cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp 32 tuổi không có tiền sử chấn thương trước đó đã bị đau khớp hông trái trong hơn 3 năm.
Cơn đau dữ dội khi xoay khớp và hiệu suất của anh ấy giảm đáng kể.
Khám sức khỏe chỉ có thể phát hiện một số điểm yếu của cơ mông.
Chụp X-quang không chuẩn bị có vẻ bình thường.
Tuy nhiên, nhiều vật thể lỏng lẻo đã được tìm thấy bên dưới đầu xương đùi ở khớp hông trái qua các nghiên cứu chụp cộng hưởng từ.
Bệnh nhân đã được phẫu thuật khớp hông trái.
Bệnh lý xương sụn hoạt dịch giai đoạn II của Milgram đã được xác nhận bằng xét nghiệm bệnh lý.
Bệnh nhân này đã tiếp tục ném bóng 10 tháng sau ca phẫu thuật và đã trở lại mức độ ném bóng chuyên nghiệp như trước khi bị chấn thương.
Đã 2,5 năm trôi qua kể từ ca phẫu thuật khớp hông. Về mặt chủ quan, khớp hông có cảm giác bình thường.
Điểm số hông của Harris là 44 điểm trước phẫu thuật và đã cải thiện lên 98 điểm trong lần theo dõi gần đây nhất.
Phim chụp X-quang mới nhất không có bằng chứng nào về thoái hóa hoặc hoại tử vô mạch ở đầu xương đùi.
Kỹ thuật phẫu thuật
Bệnh nhân được đặt ở tư thế nằm nghiêng. Rạch Kocher-Langenbeck.
Đầu tiên, gân cơ vuông đùi được xác định và bảo vệ, sau đó gân gemelli, cơ bịt kín bên trong và gân cơ lê được chia cách khoảng 2cm từ vị trí bám xương của chúng để tiếp cận bao khớp háng.
Bao khớp được mở bằng cách rạch một đường nhỏ hình chữ T. Tất cả các dị vật lỏng lẻo có thể tiếp cận và màng hoạt dịch tăng sinh đều được loại bỏ trước tiên dưới sự quan sát trực tiếp.
Kéo bằng tay được áp dụng và đầu tiên, ống soi khớp được đưa qua lỗ trên vào khớp háng; dịch chảy vào được thiết lập song song với bao ống soi.
Dao cạo nội soi khớp có dẫn lưu hút và kẹp được đưa vào vị trí phụ thuộc phía dưới của khớp háng.
Các dị vật lỏng lẻo nhỏ được hút ra và các dị vật lỏng lẻo lớn hơn còn lại được lấy ra bằng dao cạo nội soi.
Phẫu thuật cắt màng hoạt dịch được thực hiện hoàn toàn nhất có thể bằng cách sử dụng dao cạo nội soi.
Người ta đặc biệt cẩn thận không làm hỏng dây chằng tròn, mặc dù các vật thể lỏng lẻo khó loại bỏ nhất được tìm thấy gần đó hoặc gắn vào đó.
Sau khi hoàn thành công việc ở khớp háng dưới, ống soi và vị trí của dụng cụ được chuyển đổi để làm sạch các phần còn lại của khớp háng.
Bao khớp được đóng lại bằng chỉ 1—Vicryl.
Một ống dẫn lưu được đưa vào và sau đó các cơ xoay ngoài được sửa chữa bằng chỉ khâu Vicryl 1-0 ngắt quãng.
THẢO LUẬN
Vì không có triệu chứng và dấu hiệu cụ thể và do hiếm gặp nên chẩn đoán bệnh u xương sụn hoạt dịch khớp háng thường bị bỏ sót hoặc trì hoãn.
Chụp X-quang thường quy là công cụ nghiên cứu ban đầu.
Không thể nhìn thấy các vật thể rời rạc trên phim chụp X-quang thường quy trừ khi có vôi hóa hoặc cốt hóa.
Chụp cộng hưởng từ là công cụ chẩn đoán hữu ích nhất cho căn bệnh này.
Lợi ích của chụp cộng hưởng từ là chẩn đoán sớm bệnh và đánh giá các tổn thương ngoài khớp.
Cắt màng hoạt dịch và cắt bỏ vật thể rời rạc là phương pháp điều trị được khuyến nghị.
Hầu hết các tác giả trong tài liệu đều ủng hộ ý tưởng cắt màng hoạt dịch đầy đủ để giảm tỷ lệ tái phát bệnh.
Có một số phương pháp để đạt được mục tiêu này.
Cắt màng hoạt dịch nội soi khớp háng đòi hỏi kỹ thuật cao và khó tiếp cận một số vùng mà thường không thể cắt màng hoạt dịch rộng rãi.
Tỷ lệ tái phát sau phẫu thuật nội soi cao, dao động từ 7,1% đến 39%.
Trong báo cáo của Boyer và Dorfmann, 23 trong số 111 bệnh nhân (20,7%) cần nhiều hơn một lần nội soi khớp; 42 trong số họ (37,8%) cần phẫu thuật mở.
Nếu bệnh được điều trị chỉ bằng nội soi khớp, 18 (16,2%) trong số 69 bệnh nhân cần nội soi khớp thêm.
Năm bệnh nhân đã được nội soi khớp sửa đổi trong loạt nghiên cứu của Marchie và cộng sự.
Nội soi khớp háng được coi là hữu ích nhất khi các vật thể lỏng lẻo <10 mm.
Phẫu thuật mở có hoặc không có trật khớp đầu xương đùi là một phương pháp điều trị khác.
Nếu đầu xương đùi không bị trật khớp, việc cắt bỏ hoàn toàn màng hoạt dịch và loại bỏ vật thể lỏng lẻo không dễ thực hiện hoặc gần như là một nhiệm vụ bất khả thi.
Nếu đầu xương đùi bị trật khớp, luôn có nỗi lo sợ về các biến chứng như hoại tử vô mạch ở đầu xương đùi, viêm xương khớp, cố định mấu chuyển lớn không thành công hoặc cốt hóa lạc chỗ.
Trong loạt nghiên cứu của Lim và cộng sự, có hai trường hợp tái phát bệnh có triệu chứng ở mười ba khớp háng chỉ được điều trị bằng phẫu thuật cắt khớp.
Không ghi nhận trường hợp tái phát nào ở 21 bệnh nhân được điều trị trật khớp đầu xương đùi, nhưng tỷ lệ biến chứng phẫu thuật cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh nhân này.
Ganzet và cộng sự đã phát triển một kỹ thuật phẫu thuật để trật khớp đầu xương đùi mà không có nguy cơ hoại tử vô mạch.
Nhánh sâu của động mạch đùi trong ở phía trước gân cơ vuông đùi, nguồn cung cấp máu chính cho đầu xương đùi, được bảo vệ và biến chứng do thầy thuốc gây ra đáng lo ngại nhất của phẫu thuật cắt khớp sau, hoại tử vô mạch sau phẫu thuật đầu xương đùi, có thể được ngăn ngừa.
Ở tám bệnh nhân mắc bệnh này được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật này, không phát hiện thấy tái phát hoặc hoại tử vô mạch khi theo dõi.
Muốn đạt được mục tiêu cắt màng hoạt dịch rộng rãi, loại bỏ hoàn toàn dị vật lỏng lẻo và ngăn ngừa bệnh tái phát.
Bảo vệ nhánh sâu của động mạch đùi trong và tránh làm tổn thương dây chằng tròn.
Đầu dây thần kinh của dây chằng này có chức năng cảm giác bản thể tương tự như dây chằng chéo của khớp gối, bằng cách bảo tồn dây chằng, có thể đạt được sự phục hồi chức năng tốt hơn.
Có thể thử thực hiện phẫu thuật bằng phương pháp cắt khớp mini và sử dụng máy soi khớp để làm sạch khớp háng.
Các kết quả theo dõi đã chứng minh phẫu thuật mở mini hỗ trợ nội soi khớp háng đối với bệnh u sụn hoạt dịch khớp háng là phương pháp khả thi và hiệu quả.
Kết luận
Điều trị phẫu thuật được chỉ định cho bệnh u xương sụn hoạt dịch ở khớp háng.
Kỹ thuật cắt lọc mở nhỏ hỗ trợ nội soi đã đạt được mục tiêu cắt bỏ màng hoạt dịch rộng rãi và loại bỏ hoàn toàn phần rời rạc.
Bảo tồn dây chằng tròn để phục hồi chức năng tốt hơn.
Kết quả theo dõi rất khả quan.
Đây là một giải pháp thay thế khả thi cho các bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình để điều trị căn bệnh hiếm gặp này.
Thông điệp lâm sàng
Kỹ thuật mở nhỏ hỗ trợ nội soi cho bệnh u xương sụn hoạt dịch khớp háng có thể đạt được mục tiêu cắt bỏ màng hoạt dịch rộng rãi và loại bỏ hoàn toàn phần rời rạc, do đó làm giảm tỷ lệ tái phát.
Phương pháp này có thể tránh trật khớp đầu xương đùi, do đó làm giảm sự xuất hiện của các biến chứng phẫu thuật.
Chỉ những khách hàng đã đăng nhập và mua sản phẩm này mới có thể đưa ra đánh giá.
Danh mục:
Bệnh ung thư
Từ khóa:
U sụn lấp đầy khớp háng
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.