Ung thư da

Nhanh lên! Chỉ còn 49 mặt hàng trong kho

00 days
21 hrs
40 mins
58 secs

 

UNG THƯ DA
Ung thư da là loại ung thư phổ biến nhất và thường phát triển ở vùng da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Ung thư da có thể được tìm thấy ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể nhưng thường được chẩn đoán ở đầu và cổ (tức là những vùng thường xuyên tiếp xúc với ánh nắng mặt trời).
Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở những người dành nhiều thời gian ở ngoài trời để làm việc hoặc giải trí và có liên quan nghịch với lượng sắc tố da melanin; những người có làn da sáng dễ bị tổn thương nhất.
Ung thư da cũng có thể phát triển nhiều năm sau khi xạ trị hoặc phơi nhiễm với các chất gây ung thư (ví dụ: uống asen).
Hơn 5,4 triệu trường hợp ung thư da không phải khối u ác tính mới được chẩn đoán vào năm 2012 ở hơn 3,3 triệu người ở Hoa Kỳ.
Các dạng ung thư da phổ biến nhất là
Ung thư biểu mô tế bào đáy (khoảng 80%)
Ung thư biểu mô tế bào vảy
Ung thư hắc tố
Trong một nghiên cứu toàn quốc năm 2019 tại Hoa Kỳ, tỷ lệ mắc trên 100.000 người là: ung thư biểu mô tế bào đáy 525 người; ung thư biểu mô tế bào vảy 262 người; và khối u ác tính 17,0 người.
Các dạng ung thư da ít phổ biến hơn
Bệnh Paget ở vú hoặc bệnh Paget ngoài vú (thường ở bẹn hoặc gần hậu môn)
Kaposi sarcoma
Ung thư biểu mô tế bào Merkel
Bệnh fibroxanthomas không điển hình
Khối u phần phụ
U lympho tế bào T ở da (u sùi dạng nấm)
Ung thư biểu mô tế bào vảy tại chỗ (trước đây gọi là bệnh Bowen) là ung thư biểu mô tế bào vảy bề mặt. U quá sản sừng có thể là một dạng khác biệt của ung thư biểu mô tế bào vảy.
Ban đầu, ung thư da thường không triệu chứng.
Dạng thương tổn hay gặp nhất là một thương tổn màu đỏ hoặc màu sắc không đều không biến mất.
Bất kỳ tổn thương nào có vẻ như to ra sẽ được sinh thiết - liệu có mềm, viêm nhẹ, có vảy tiết, hoặc xuất huyết đôi khi có hay không.
Nếu được điều trị sớm, hầu hết các bệnh ung thư da đều có thể chữa được.
Phòng ngừa ung thư da
Vì nhiều bệnh ung thư da có thể liên quan đến việc tiếp xúc với tia cực tím (UV), nên một số biện pháp được khuyến nghị để hạn chế phơi nhiễm.
Tránh nắng: Tìm bóng râm, giảm thiểu các hoạt động ngoài trời từ 10 giờ sáng đến 4 giờ chiều (khi tia nắng mặt trời mạnh nhất), tránh tắm nắng và sử dụng giường tắm nắng
Sử dụng quần áo bảo hộ: Áo sơ mi dài tay, quần dài và mũ rộng
Sử dụng kem chống nắng: Ít nhất yếu tố bảo vệ nắng (SPF) là 30 với bảo vệ UVA/UVB phổ rộng, được sử dụng theo chỉ dẫn (tức là dùng lại sau 2 giờ và sau khi bơi hoặc đổ mồ hôi); không nên được sử dụng để kéo dài tiếp xúc với ánh nắng mặt trời
Bằng chứng hiện tại là không đủ để xác định liệu các biện pháp này có làm giảm tỷ lệ mắc hoặc tử vong của khối u ác tính hay không; trong các bệnh ung thư da không phải khối u ác tính, việc chống nắng sẽ làm giảm tỷ lệ mắc các bệnh ung thư mới.
Sàng lọc
Một số tổ chức chuyên môn hỗ trợ khám lâm sàng và tự khám để sàng lọc ung thư da; tuy nhiên, Lực lượng Đặc nhiệm Dịch vụ Phòng ngừa Hoa Kỳ chưa tìm thấy đủ bằng chứng để làm điều đó đối với người dân nói chung.
Những bệnh nhân có nguy cơ cao, chẳng hạn như những người dùng thuốc ức chế miễn dịch, những người có tiền sử cá nhân hoặc gia đình mắc bệnh ung thư da, hoặc những người có nguy cơ mắc ung thư da cao do đột biến gen cụ thể hoặc phơi nhiễm môi trường, cần phải cân nhắc đến việc giám sát bệnh ung thư da thường quy.
Ung thư da là một bệnh lý ung thư ác tính, xuất hiện do các tế bào da phát triển, phân chia mất kiểm soát. Ung thư da có thể khởi phát từ tầng biểu bì ngoài cùng bao gồm các tế bào sừng, hoặc lớp bên trong như tế bào đáy, tế bào hắc tố (melanocyte).
Thông thường, các tế bào da chết đi và bị tróc ra. Những tế bào da non được đẩy lên trở thành tầng biểu bì trưởng thành trên da, thay thế cho lớp tế bào da đã chết trước đó.
Tuy nhiên một số nguyên nhân khiến quá trình này không diễn ra như trình tự bình thường, dẫn đến các tổ chức da sắp xếp bất thường, gây ung thư da.
Tia cực tím được cho là yếu tố chính liên quan đến ung thư da. Tia cực tím có thể đi xuyên qua da, gây tổn thương các tế bào da làm xuất hiện tàn nhang, vết nhăn…
Ung thư da gồm 3 loại thường gặp nhất: ng thư biểu mô tế bào đáy (BCC), ung thư biểu mô tế bào vảy (SCC) và ung thư hắc tố (melanoma), trong đó ung thư biểu mô tế bào đáy và ung thư biểu mô tế bào vảy là hai loại ung thư thường gặp nhất.
May mắn đây là hai loại ung thư có tốc độ phát triển chậm, tiên lượng điều trị và phục hồi rất tốt, đặc biệt nếu phát hiện và can thiệp điều trị sớm.
Trong khi đó ung thư hắc tố da có tiên lượng điều trị kém hơn, có thể ảnh hưởng sâu đến các tầng da và nguy cơ di căn các cơ quan đến phát hiện muộn.
Ung thư da không phải ung thư hắc tố là một dạng ung thư phổ biến, có thể phát hiện sớm và điều trị triệt căn.
Tiên lượng điều trị và phục hồi đối với ung thư da tương đối cao, hơn 95 % bệnh nhân có thể sống thêm 5 năm trở lên kể từ thời điểm chẩn đoán bệnh.
Ung thư da có tỷ lệ tử vong thấp nhưng vẫn có trường hợp tử vong do không can thiệp các phương pháp điều trị phù hợp kịp thời.
Do đó, bệnh nhân tránh chủ quan và tuân thủ phác đồ điều trị, tư vấn từ bác sĩ chuyên khoa ung bướu.
Ngược lại, ung thư hắc tố da có tiên lượng điều trị xấu hơn đối với ung thư da không hắc tố. Tiên lượng sống bệnh nhân ung thư hắc tố có thể dao động 30 % đối với trường hợp đã di căn xa.
Dấu hiệu ung thư da giai đoạn đầu thường là những nốt ban đỏ, sần nổi trên bề mặt da, màu đỏ, hồng hoặc nâu. Có thể ở dạng nốt, bờ bất đối xứng, bong vảy hoặc giống các bệnh lý như viêm da, vẩy nến, eczema…
Ở giai đoạn tiến triển, ung thư có thể có những nốt sần sáng, có thể trong suốt kèm các nốt nhỏ hoặc rỉ máu, mao mạch lông giãn nở, loét và sưng…
Nhiều trường hợp xuất hiện các vết sần cứng hoặc xơ hóa trên da, có thể lở loét vào giai đoạn cuối.
Một số ảnh hưởng, biến chứng của ung thư da đối với sức khỏe có thể xảy ra như:
Sẹo: 
Điều trị ung thư da có thể để lại một số vết sẹo.
Đối với ung thư biểu mô tế bào đáy và ung thư biểu mô tế bào vảy, các phương pháp điều trị có thể được chỉ định gồm tia laser, liệu pháp đông lạnh (áp lạnh), bôi kem hoặc liệu pháp quang động.
Đối với phương pháp phẫu thuật, mức độ để lại sẹo có thể cao hơn so với các phương pháp khác.
Khu vực quanh mắt, mũi, môi, bàn tay, bàn chân và cơ quan sinh dục là những khu vực có nguy cơ cao bị sẹo.
Tăng hoặc giảm sắc tố: 
Các mảng da sẫm hoặc nhạt màu hơn màu da xung quanh do vùng da đó không thể phục hồi.
Khuyến nghị sau điều trị, người bệnh nên tiếp tục thoa kem chống nắng ngay cả khi vết sẹo đã lành.
Độ căng và kết cấu da: 
Khu vực khối u cũ sau điều trị có thể căng và cứng hơn, mạch máu và cấu trúc da có thể thay đổi.
Phù bạch huyết: 
Tình trạng sưng tấy ở tay và chân có thể xảy ra do nạo vét, cắt bỏ hạch bạch huyết bị tổn thương. Sự tắc nghẽn trong hệ bạch huyết khiến dịch bạch huyết không thể lưu thông tốt, dẫn đến hiện tượng phù bạch huyết.
Nhiễm trùng sau phẫu thuật: 
Hầu hết trường hợp nhiễm trùng xảy ra trong vòng 30 ngày sau phẫu thuật. Các vết mủ hoặc vết thương đau, ửng đỏ hoặc nóng rát. Khuyến nghị vệ sinh sạch vết thương và có thể bôi thêm các loại kem dưỡng vết thương theo tư vấn của bác sĩ
Tê nhức: 
Cảm giác tê nhức, ngứa ran và đau đớn có thể xảy ra do dây thần kinh bị tổn thương.
Tổn thương cơ, dây thần kinh và xương:
Một số trường hợp ung thư hắc tố xâm lấn sâu và ảnh hưởng đến các cơ, mô, cơ quan quan trọng khác của cơ thể.
Di căn: 
Ung thư hắc tố da có nguy cơ di căn các cơ quan khác cao hơn so với các loại ung thư da không phải hắc tố.
U hắc tố ác tính có thể xâm lấn hạch bạch huyết lân cận cho đến các cơ quan khác như phổi, gan, xương, não…
Ảnh hưởng tinh thần: 
Bệnh nhân ung thư da có thể lo lắng, căng thẳng và trầm cảm do nhận tin chẩn đoán ung thư. Gia đình nên giải thích, động viên tinh thần người bệnh để họ bình tĩnh và thoải mái trong suốt quá trình điều trị.
Tiên lượng sống Ung thư da
Đối với trường hợp ung thư da không phải u hắc tố ác tính, hầu hết bệnh nhân ung thư da có thể sống sau 5 năm kể từ thời điểm chẩn đoán bệnh.
Cụ thể, đối với bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào đáy (BCC), tỷ lệ sống thêm tương đối sau 5 năm kể từ thời điểm phát hiện bệnh là 100%.
Đồng nghĩa tất cả các trường hợp ung thư biểu mô tế bào đáy đều sống sót qua 5 năm.
Đối với bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào vảy (SCC), tỷ lệ sống thêm sau 5 năm kể từ thời điểm chẩn đoán ung thư là 95%.
Nhìn chung tiên lượng sống và điều trị đối với bệnh nhân ung thư da là rất khả quan.
Đối với trường hợp bệnh nhân mắc ung thư da tế bào Merkel, tiên lượng sống thêm sau 5 năm nếu phát hiện và điều trị sớm là 75% .
Nếu ung thư xâm lấn hạch bạch huyết lân cận hoặc các mô xung quanh, tỷ lệ này giảm còn 61% và tiên lượng sống thêm 5 năm đối với bệnh nhân ung thư tế bào Merkel giảm còn 24% nếu phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn.
Ung thư hắc tố chỉ chiếm 1% các trường hợp ung thư da, tuy nhiên đây là nguyên nhân chính gây tử vong ở hầu hết các trường hợp ung thư.
Mỗi năm tại Hoa Kỳ, ước tính có khoảng 100.000 trường hợp mắc mới ung thư hắc tố.
Tại Việt Nam, theo số liệu thống kê từ GLOBOCAN 2020 , có khoảng 193 trường hợp mắc ung thư sắc tố da được ghi nhận.
Đối với trường hợp ung thư da hắc tố, hơn 99%  bệnh nhân có thể sống thêm sau 5 năm nếu phát hiện và điều trị ung thư giai đoạn khu trú.
Tiên lượng sống 5 năm giảm còn 71% nếu ung thư lan rộng sang các mô và hạch bạch huyết lân cận và tiên lượng sống giảm còn 32% nếu tế bào ung thư di căn các cơ quan xa.
Cách phòng ngừa ung thư da
Nhiều yếu tố được cho có liên quan đến các tác nhân gây ung thư da. Mặc dù không có phương pháp nào có thể ngăn ngừa hoàn toàn ung thư, khuyến nghị một số biện pháp:
Giảm tiếp xúc tia cực tím: 
Để hạn chế tác hại của tia cực tím cần giảm thời gian tiếp xúc với ánh nắng Mặt Trời cũng như hạn chế tắm nắng.
Hạn chế tiếp xúc với ánh sáng Mặt Trời trong khoảng thời gian tia UV mạnh nhất (10-14 giờ), thậm chí hạn chế tiếp xúc đến 16 giờ nếu vào mùa cao điểm nắng nóng.
Che chắn cẩn thận, mặc quần áo bảo hộ, mũ rộng vành để che phần mặt, cổ, tai. Đối với những người làm việc ngoài trời, quần áo nên làm từ vải có hệ số chống tia cực tím (UPF) và kính râm.
Sử dụng kem chống nắng chống các tia bức xạ UVA và UVB, có chỉ số SPF 30 trở lên. Thoa kem liên tục cho toàn bộ cơ thể sau mỗi 2 giờ hoặc mỗi giờ nếu hoạt động dưới nước hoặc đổ mồ hôi.
Hạn chế tắm nắng trong thời gian dài. Chỉ nên phơi nắng khoảng 15 phút mỗi ngày vào buổi sáng để cơ thể tổng hợp vitamin D.
Kiểm tra da thường xuyên: Tự kiểm tra da hoặc đến các bệnh viện chuyên khoa Da liễu, Ung bướu khám nếu phát hiện các dấu hiệu bất thường xuất hiện trên da.
8 DẤU HIỆU UNG THƯ DA
1. Mảng da sần sùi, thô ráp, đóng vảy có thể là biểu hiện ung thư da
Nếu quan sát và nhận thấy các mảng thô ráp, đóng vảy có màu chuyển từ nâu đến hồng đậm trên cơ thể, đặc biệt là ở mặt, đầu và hai tay, nên cẩn thận. Đây có thể là biểu hiện của bệnh dày sừng, một trong những tổn thương da tiền ung thư. Những mảng da như thế này thường thấy ở người da trắng hoặc người từng bị tổn thương da vì ánh nắng mặt trời. 
2. Triệu chứng ung thư da: Một nốt u tròn như hạt ngọc, trong mờ như sáp
Hãy để ý nếu trên da xuất hiện một nốt u tròn với những đặc điểm sau:
Nhìn như hạt ngọc, hơi mềm 
Trong mờ, hơi bóng như sáp
Trông như mụn nhưng không có nhân, ở giữa lõm.
Các nốt u này có thể là dấu hiệu bị ung thư da, cụ thể là ung thư biểu mô tế bào đáy. Kèm theo đó, cơ thể cũng có xu hướng dễ chảy máu hoặc xuất hiện các tia máu nhỏ đan xen gần bề mặt da (do các mạch máu nhỏ bị giãn).
3. Những vùng da tổn thương có màu đỏ, chạm vào thấy chắc, rắn
Một dấu hiệu của ung thư da khác mà cần lưu ý là trên da xuất hiện những vùng tổn thương màu đỏ, cứng, xỉn màu. Chúng sẽ dần lan rộng ra, có phần trung tâm lõm xuống hay bị loét.
Khu vực bị loét có thể:
Phát triển thêm một vòng mô khác bên trong khu vực ban đầu
Phát triển thành một mảng giòn có màu khác biệt
Mãi không lành
Các vùng tổn thương này hình thành nốt mủ trông như nốt mụn hoặc nhọt nhưng không lặn đi.
Chúng thường xuất hiện trên mặt, tai và tay. Đối với những người da sẫm màu, tổn thương đôi khi phát triển trên các khu vực không tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.
4. Nốt ruồi bất thường có thể là dấu hiệu ung thư da
Trên da có nốt ruồi phát triển thành đốm nâu thẫm đi cùng các vết lốm đốm có màu đậm hơn
Nốt ruồi vốn có bỗng dưng thay đổi màu sắc hoặc kích thước. Khi chạm vào thấy cảm giác khác thường hoặc bị chảy máu ở nốt ruồi
Nốt ruồi đột nhiên thay đổi có khi là dấu hiệu của một khối u hắc tố ác tính. Hãy thường xuyên kiểm tra xem nốt ruồi có các dấu hiệu ung thư da nào sau đây hay không:
A (Asymmetric): Có tính bất đối xứng, méo mó
B (Border irregularity): Bờ không đều hoặc lan tràn
C (Color variegation): Màu sắc không đồng nhất 
D (Diameter): Đường kính lớn hơn 0,5 cm 
E (Enlargement hoặc Evolution): Lan rộng hay tiến triển.  
5. Những tổn thương có viền không rõ ràng màu đỏ, trắng, xanh hoặc xanh đen
Bất kỳ đốm tối màu nào trông kỳ lạ, đặc biệt khi nó xuất hiện đột ngột, có bất thường về màu sắc, khi chạm vào thấy đau đều cần được bác sĩ kiểm tra.
Hãy chú ý đến những khu vực như lòng bàn tay, lòng bàn chân, đầu ngón tay hoặc ngón chân.
Đừng bỏ qua một số vị trí khác như khu vực quanh âm đạo và hậu môn.
6. Dấu hiệu ung thư da: Mụn cứng, màu vàng
Mụn cứng, màu vàng có khả năng là biểu hiện của ung thư biểu mô tuyến bã nhờn (một loại ung thư của tuyến phụ thuộc da, hiếm gặp).
Nốt mụn kiểu này cũng có thể xuất hiện ở nhiều vị trí khác trên cơ thể như đầu, cổ, thân mình hoặc vùng sinh dục.
7. U nhỏ màu đỏ như thịt tươi hoặc tím bầm
Màu đỏ, xanh, tím hoặc đỏ như thịt tươi
Trông giống như một nhọt nhỏ
Lõm ở trung tâm
Ung thư tế bào Merkel là một dạng ung thư da rất hiếm gặp.
Chúng có thể phát triển ở những khu vực da bị tổn thương trên mặt, đầu hoặc cổ.
Người lớn tuổi có tiền sử tiếp xúc với ánh nắng mặt trời quá mức hoặc người có hệ miễn dịch suy yếu thường gặp những dấu hiệu ung thư da này. 
8. Mảng/đốm lớn màu đỏ hoặc tím trên da có thể là dấu hiệu ung thư da
Các mảng màu đỏ hoặc tím nổi lên trên da có thể là dấu hiệu của ung thư da Sarcoma Kaposi.
Bệnh rất hiếm gặp và thường xảy ra ở những người bị HIV/AIDS hoặc ghép nội tạng.
Kaposi sarcoma phát triển trong các mạch máu ở da, tạo ra tổn thương hoặc khối u không đau trên mặt hoặc chân.
Các khối u ở vị trí chân hay bẹn làm chân sưng lên và đau đớn do di căn hạch làm tắc nghẽn bạch huyết vùng này.
Dấu hiệu ung thư da giai đoạn đầu hay triệu chứng ung thư da sớm gồm ổ loét lâu liền hoặc loét rớm máu, ổ dày sừng có loét, nổi cục, dễ chảy máu, ổ loét hoặc u trên nền sẹo cũ, nốt đỏ mạn tính có loét…
Dấu hiệu ung thư da theo từng dạng bệnh
Dấu hiệu ung thư da tế bào đáy
Ung thư da tế bào đáy xuất phát từ lớp tế bào đáy và chiếm 65% tổng số các trường hợp ung thư da. Bệnh phát triển chậm, hầu như không di căn hạch, không di căn xa, có tiên lượng tốt.
Biểu hiện ung thư da dạng này thường xuất hiện ở vùng mặt và da hở, đặc biệt là mũi, má, thái dương và rất ít khi ở niêm mạc.
Triệu chứng ung thư da tế bào đáy điển hình là những tổn thương dạng hạt nổi gồ lên bề mặt da, màu đỏ hồng, cản sáng, có đường kính khoảng vài milimet và có giãn mạch.
Ngoài ra, dấu hiệu nhận biết ung thư da còn biểu hiện một số dạng khác như sau:
Dạng nốt: Tổn thương dạng nốt to, màu trắng.
Dạng sẹo phẳng: Được hình thành từ vùng trung tâm của sẹo trên da với vùng bờ nổi gồ lên, thường ở má.
Dạng loét: Tổn thương dạng loét, không nổi gồ, tiến triển nhanh.
Dạng có màu sắc: Các hạt nổi gồ trên da có màu sắc.
Dạng xơ cứng bì: Tổn thương thâm nhiễm không rõ ranh giới. 
Dạng tổn thương đỏ ở da, ranh giới rất rõ với bờ nổi gồ.
Ung thư da tế bào vảy
Ung thư da tế bào vảy (hay còn gọi là tế bào gai) xuất phát từ lớp tế bào vảy. Các dấu hiệu ung thư da tế bào vảy thường xuất hiện trên nền sẹo cũ, sẹo bỏng, ở những vị trí có cường độ tiếp xúc với ánh nắng cao nhất như vùng mặt, mu bàn tay và mặt lưng cẳng tay.
Bệnh chiếm 25% trong tổng số các trường hợp ung thư da, phát triển nhanh, có di căn hạch, di căn xa, tiên lượng xấu hơn ung thư da tế bào đáy.
Bệnh có những đặc điểm:
Tổn thương tiền ung thư:
Dày sừng ánh sáng (keratose actinique) là các tổn thương không nổi gồ, nhưng sần sùi, kích thước < 1 cm, thường màu đen và tăng sừng hóa. Khoảng 5 – 20% tổn thương dạng này tiến triển thành ung thư da tế bào vảy.
Ung thư da tế bào vảy tại chỗ (bệnh Bowen):
Dấu hiệu ung thư da tế bào vảy tại chỗ thường là những tổn thương có dạng ovan, ranh giới rõ, bề mặt sần sùi, màu đỏ, tiến triển chậm và thường ở chi dưới.
Ung thư da tế bào vảy xâm nhập:
Thường xuất phát trên vùng da bất thường, có thể trên nền của bệnh dày sừng ánh sáng, bệnh Bowen hay trên nền sẹo cũ như sẹo bỏng. Tổn thương ung thư thường có cả 3 đặc điểm (nồi sùi, loét hoặc thâm nhiễm). Thể loét sùi là thể thường gặp nhất với đặc điểm: U sùi, thâm nhiễm, bề mặt không đều, ở giữa có loét, dễ chảy máu. Đôi khi, u lớn trông giống một khối loét sùi kiểu súp lơ, mùi hôi khó chịu.
Ở giai đoạn muộn, khối u bội nhiễm, nề đỏ quanh u, đau và nghẽn mạch. Khối u tiến triển nhanh, loét sùi lan rộng, xâm lấn xuống lớp sâu, ở vùng bàn tay bàn chân có thể làm rụng ngón, ở vùng gần khớp gây hạn chế vận động chi. Khối u vùng da đầu có thể làm lộ xương sọ, biến dạng và bội nhiễm trầm trọng.
Ung thư da tế bào vảy dễ di căn hạch. Hạch di căn thường to, chắc, đơn độc hoặc dính thành đám, di động hoặc cố định.
Da trên bề mặt của hạch bình thường, thâm nhiễm hoặc lở loét. Bệnh càng ác tính thì càng sớm di căn theo đường bạch huyết vào hạch và di căn theo đường máu vào phổi, xương, não, gan.
Ung thư da tế bào vảy thể không điển hình:
U xuất hiện trên nền tổn thương tiền ung thư, trên nền sẹo xơ hóa lâu ngày, tiến triển chậm. Bề mặt khối u có gai, sừng hóa hoặc sùi không rõ rệt.
Bệnh phát triển tại chỗ là chính, độ ác tính thấp, ít di căn hạch và di căn xa. 
Có thể gặp Paget của da ở vùng bẹn, bộ phận sinh dục và tầng sinh môn. 
Ung thư tuyến phụ thuộc da
Ung thư tuyến phụ thuộc da xuất phát từ các tế bào của tuyến mồ hôi hoặc tuyến bã.
Vị trí hay gặp ở vùng da đầu, nách, mông, chiếm khoảng 10% trong tổng số các trường hợp ung thư da.
Các tuyến này nằm ngay dưới da nên khi xuất hiện, ung thư nằm dưới mặt da, đẩy lồi da lên cao, dễ nhầm với ung thư phần mềm.
U vùng nách dễ nhầm với ung thư tuyến vú phụ hoặc ung thư vú di căn hạch nách.
U vùng mông dễ nhầm với u tuyến bã lành tính.
Ung thư tuyến phụ thuộc da là phát triển nhanh, hay di căn hạch, di căn xa, tiên lượng xấu.
Dấu hiệu ung thư tuyến phụ thuộc da là các khối u chắc, dính, di động kém, nề đỏ, đau như một khối viêm. U phát triển nhanh, xâm lấn xuống lớp sâu vào cơ và xương, khớp kế cận.
 

Danh mục: Bệnh ung thư Từ khóa: