U tim - Ung thư tim

Nhanh lên! Chỉ còn 49 mặt hàng trong kho

00 days
21 hrs
40 mins
58 secs

 

CÁC KHỐI U TIM – UNG THƯ TIM
Các khối u tim có thể là u nguyên phát (lành tính hoặc ác tính) hoặc di căn từ nơi khác đến (ác tính).
Myxoma, một khối u lành tính, là loại phổ biến nhất của khối u tim nguyên phát.
Các khối u có thể bắt nguồn từ bất kỳ mô nào trong tim.
Chúng có thể gây tắc nghẽn đường ra/đường vào của tim hoặc van tim, gây huyết khối tắc mạch, rối loạn nhịp hoặc các rối loạn ở màng ngoài tim.
Chẩn đoán được dựa trên siêu âm tim và MRI tim thường xuyên.
Các khối u lành tính thường được điều trị bằng phẫu thuật, tuy nhiên chúng có thể tái phát.
Điều trị các khối u di căn đến tim cần dựa vào loại ung thư và khối u nguyên phát, tiên lượng thường là xấu.
Khối u tim nguyên phát được tìm thấy ở < 1/5000 người khi khám nghiệm tử thi.
Các khối u di căn phổ biến hơn nhiều, xảy ra trong một loạt ở > 8% số bệnh nhân ung thư.
Thông thường, các khối u tim nguyên phát bắt nguồn từ cơ tim hoặc nội mạc tim; chúng cũng có thể phát sinh từ van tim, mô liên kết tim, hoặc màng ngoài tim.
Các khối u di căn của tim thường bắt nguồn từ phổi.
Các nguồn di căn tim phổ biến khác bao gồm ung thư biểu mô vú và thận, khối u ác tính và ung thư hạch.
Phân loại khối u tim
Một số khối u tim nguyên phát và thứ phát phổ biến hơn được liệt kê trong bảng Các loại khối u tim. Các khối u nguyên phát có thể
Lành tính (khoảng 80% số trường hợp
Ác tính (còn lại khoảng 20%)
Các khối u nguyên phát lành tính
Ví dụ: u nhầy, u sợi đàn hồi dạng nhú, u cơ tim, u xơ, u máu, u quái, u mỡ,u cận hạch và nang màng ngoài tim.
U nhày là phổ biến nhất, chiếm 40% đến 60% trong tất cả các khối u tim nguyên phát. Tỷ lệ mắc ở nữ giới gấp 2 lần đến 3 lần so với nam giới.
Ở các dạng gia đình hiếm gặp (phức hợp Carney), nam giới bị ảnh hưởng thường xuyên hơn.
Hầu hết các u nhày xảy ra ở tâm nhĩ trái và phần còn lại xảy ra ở các buồng khác dưới dạng khối u đơn độc hoặc ít phổ biến hơn ở một số vị trí.
Đường kính u nhầy có thể lên tới 15 cm.
Hầu hết đều có cuống và có thể sa qua van hai lá và cản trở việc đổ đầy tâm thất trong thì tâm trương. Các trường hợp còn lại u chân rộng và không cuống.
U nhầy có thể nhầy và dính; nhẵn, chắc, có múi, hoặc mủn và không đều. Các u nhầy mủn, không đều có nguy cơ gây tắc mạch hệ thống cao hơn.
Phức hợp Carney là hội chứng di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường, với biểu hiện là u nhầy tim tái phát cùng với u nhày ở da, u xơ nhầy tuyến vú, các tổn thương da sắc tố (đốm sắc tố sậm màu, tàn nhang, nốt ruồi xanh), tân sản nhiều tuyến nội tiết (bệnh sắc tố dạng nốt vỏ thượng thận tiên phát gây hội chứng Cushing, u tuyến yên tiết hormone tăng trưởng và prolactin, u tuyến hoặc ung thư biểu mô tuyến giáp, u nang buồng trứng), u tế bào Schwann thể tiết melanin dạng canxi hóa, u tuyến ống tuyến vú và u nhày xương sụn.
Bệnh thường khởi phát sớm (trung bình 20 tuổi), biểu hiện có nhiều u nhầy (đặc biệt ở tâm thất) và nguy cơ tái phát cao.
U xơ sợi nhú là u nhú vô mạch xảy ra trên van tim trong khoảng 80% số trường hợp.
Các u nhú có nhiều khả năng xảy ra ở bên trái tim, chủ yếu ở van động mạch chủ và van hai lá.
Nam và nữ giới bị ảnh hưởng như nhau.
 Các u nhầy có các lá mọc chẽ ra từ lõi, giống như một con hải quỳ.
Hầu hết đều có cuống.
Các u nhú này không gây rối loạn chức năng van tim nhưng làm tăng nguy cơ tắc mạch.
U cơ vân ảnh hưởng chủ yếu đến trẻ sơ sinh và trẻ em, có tới 90% trong số đó cũng mắc bệnh xơ cứng củ.
U cơ tim thường có nhiều khối và nằm trong cơ vùng vách hoặc thành tự do, ảnh hưởng tới hệ thống dẫn truyền của tim.
Chúng có dạng thùy, chắc, màu trắng và thường thoái triển theo tuổi.
Một số ít bệnh nhân bị các rối loạn nhịp nhanh hoặc suy tim do tắc nghẽn đường ra thất trái.
U xơ chủ yếu gặp ở trẻ em và có liên quan tới u tuyến bã của da và các khối u thận.
Chúng chủ yếu gặp ở tim trái, bên trong cơ tâm thất và có thể phát triển trong phản ứng viêm.
Các u nhày có thể chèn ép hoặc xâm lấn hệ thống dẫn truyền của tim gây rối loạn nhịp và đột tử.
Một số u xơ là một trong các biểu hiện của hội chứng gồm có cơ thể phát triển quá mức, u nang sừng xương hàm, bất thường xương và nhiều khối u lành tính hoặc ác tính khác (Gorlin, hội chứng nốt ruồi tế bào đáy).
U máu gây triệu chứng ở một số ít bệnh nhân. U máu thường được phát hiện tình cờ khi thăm dò vì các lý do khác.
U quái màng tim chủ yếu gặp ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ. Chúng thường gắn vào nền của các mạch máu lớn. Hầu hết đều nằm ở trung thất trước; phần còn lại, chủ yếu ở trung thất sau.
U mỡ có thể xuất hiện ở nhiều lứa tuổi. Chúng khởi phát ở nội tâm mạch hoặc màng ngoài tim và có một cuống lớn. Nhiều trường hợp không có triệu chứng, nhưng một số có thể làm tắc nghẽn hoặc gây rối loạn nhịp .
U cận hạch, bao gồm u tủy thượng thận, hiếm khi xuất hiện trong tim.
Nếu có, chúng thường gặp ở đấy tim, gần đầu tận của thần kinh phế vị bệnh đốm hồng cầu, Triệu chứng có thể gặp do tiết catecholamine (ví dụ tăng nhịp tim, huyết áp, đổ mồ hôi quá nhiều, run).
U cân hạch có thể lành tính hoặc ác tính.
U nang màng ngoài tim có thể giống khối u tim hoặc tràn dịch màng ngoài tim trên phim X quang ngực.
Chúng thường không có triệu chứng, mặc dù một số gây ra các triệu chứng chèn ép (ví dụ, đau ngực, khó thở, ho).
Các khối u nguyên phát ác tính ở tim
Các khối u nguyên phát ác tính bao gồm u mô liên kết (sarcoma), u trung biểu mô màng ngoài tim và u lympho nguyên phát.
Sarcoma là khối u tim ác tính phổ biến nhất.
Sarcoma chủ yếu gặp ở người trung tuổi (trung bình 44 tuổi).
Gần 40% là sarcom mạch, hầu hết bắt nguồn từ tâm nhĩ phải và liên quan đến màng ngoài tim, gây tắc nghẽn đường vào thất phải, chèn ép tim và di căn phổi.
Các trường hợp khác bao gồm sarcoma không biệt hóa, u mô bào sợi ác tính, u mô mềm, u mô sợi, u mô cơ tim, u mô mỡ và u mơ xương; các khối u này thường ở nhĩ trái, gây tắc nghẽn van hai lá và suy tim, bệnh rhabdomyosarcoma, suy tim.
U trung biểu mô màng ngoài tim rất hiếm gặp.
U trung biểu mô màng tim gặp ở mọi lứa tuổi, nam nhiều hơn nữ.
Các u này gây ép tim, co thắt màng ngoài tim và có thể di căn tới cột sống, mô mềm liền kề và não tamponade.
U lymphom nguyên phát rất hiếm gặp.
U này thường xảy ra ở những bệnh nhân nhiễm HIV hoặc những người khác bị suy giảm miễn dịch.
Các khối u này thường phát triển nhanh, gây suy tim, rối loạn nhịp, chèn ép tim và hội chứng tĩnh mạch chủ trên.
Các khối u có di căn
Khối u di căn từ các cơ quan khác có thể làm thương tổn tim thông qua sự lây lan theo đường máu hoặc xâm lấn trực tiếp.
U sắc tố là khối u có khả năng di căn tim cao.
Ung thư biểu mô phổi và vú, sarcoma mô mềm và ung thư thận cũng là những nguồn di căn phổ biến đến tim. 
Bệnh bạch cầu và u lympho thường di căn đến tim, nhưng tổn thương tim có thể âm thầm về mặt lâm sàng và được phát hiện tình cờ.
Khi Kaposi sarcoma lây lan một cách có hệ thống ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch (thường là bệnh nhân nhiễm HIV), có thể lan đến tim, nhưng các biến chứng tim trên lâm sàng là không phổ biến.
Các triệu chứng và dấu hiệu của khối u tim
Các khối u ở tim gây ra các triệu chứng và dấu hiệu điển hình của các rối loạn phổ biến hơn nhiều (ví dụ: suy tim, đột quỵ, bệnh động mạch vành).
Các triệu chứng cơ năng và thực thể của u tim lành tính nguyên phát phụ thuộc vào loại u, vị trí, kích thước và độ bền vững của u.
Các nhóm triệu chứng
Các triệu chứng có thể được phân loại thành
Triệu chứng ngoài tim
Triệu chứng trong cơ tim
Triệu chứng trong buồng tim
Triệu chứng ngoài tim bao gồm các biểu hiện ngoài tim và dấu hiệu biến chứng cơ học.
Các triệu chứng toàn thân như sốt, ớn lạnh, hôn mê, đau khớp và sụt cân có thể do u nhầy gây ra, có thể là do giải phóng cytokine (ví dụ: interleukin-6); tuy nhiên, các triệu chứng toàn thân thường không có ở u nhầy.
Chấm xuất huyết và hội chứng Raynaud cũng có thể xảy ra. Những dấu hiệu này và những dấu hiệu khác có thể gợi ý nhầm đến viêm nội tâm mạc do vi khuẩn, bệnh thấp khớp hệ thống hoặc ung thư tiềm ẩn.
Với một số khối u (đặc biệt u nhày dạng keo), huyết khối hoặc mảnh vỡ khối u có thể gây tắc mạch khi đi vào tuần hoàn hệ thống (ví dụ mạch não, mạch vành, mạch thận, mạch lách, mạch chi) hoặc tuần hoàn phổi gây các biểu hiện đặc trưng ở từng cơ quan.
Các triệu chứng cơ học như khó thở, tức ngực có thể do chèn ép của buồng tim, mạch vành hoặc kích ứng màng ngoài tim hoặc chèn ép tim do khối u phát triển hoặc gây tràn máu trong màng tim.
Các khối u màng ngoài tim có thể gây tiếng cọ màng ngoài tim.
Triệu chứng trong cơ tim gây ra bởi rối loạn nhịp, thường là block nhĩ thất hoặc trong thất hoặc nhịp nhanh kịch phát trên thất, nhịp nhanh thất do chèn ép hoặc xâm lấn hệ thống dẫn truyền (thường do u cơ tim và u xơ). Loạn nhịp.
Triệu chứng trong buồng tim là do u gây cản trở chức năng van tim, dòng máu hoặc cả hai (gây hẹp van, suy van hoặc suy tim).
Các triệu chứng trong buồng tim có thể thay đổi theo tư thế, do sự thay đổi về huyết động và lực tác động liên quan đến khối u.
Các triệu chứng cơ năng và triệu chứng thực thể theo từng loại u
U nhầy biểu hiện bằng tam chứng: suy tim, tắc mạch và triệu chứng toàn thân suy tim. U nhầy có thể gây tiếng rung tâm trương như hẹp van hai lá nhưng cường độ và vị trí thay đổi qua mỗi nhịp tim và thay đổi theo tư thế.
Khoảng 15% số u nhày có cuống ở tâm nhĩ trái tạo ra tiếng “khối u” có thể nghe được khi u rơi vào lỗ hai lá trong kỳ tâm trương.
U nhày cũng có thể gây loạn nhịp tim. Hội chứng Raynaud và ngón tay dùi trống có thể gặp dù không thường xuyên.
U sợi đàn hồi thường không gây triệu chứng và được phát hiện khi khám nghiệm tử thi, tuy nhiên chúng có thể là nguồn gây tắc mạch.
U cơ tim thường không có triệu chứng.
U xơ gây loạn nhịp tim, có thể gây đột tử và các triệu chứng tắc nghẽn.
U máu thường không gây triệu chứng nhưng có thể gây ra các biểu hiện ngoài tim, trong cơ tim và trong buồng tim.
U quái gây suy hô hấp và tím do chèn ép động mạch chủ, động mạch phổi hoặc gây triệu chứng tĩnh mạch chủ trên.
Triệu chứng và dấu hiệu của u tim ác tính thường khởi phát cấp tính hơn và tiến triển nhanh hơn các khối u lành.
Sarcoma tim thường gây ra các triệu chứng tắc nghẽn đường dẫn vào tâm thất và chèn ép tim.
U trung biểu mô gây các triệu chứng viêm cơ tim hoặc chèn ép tim.
U lympho nguyên phát dẫn tới suy tim tiến triển trơ với điều trị, chèn ép tim, rối loạn nhịp và hội chứng tĩnh mạch chủ trên.
U di căn tới tim có thể biểu hiện bởi tim to đột ngột, chèn ép tim (do tràn dịch máu màng ngoài tim tiến triển nhanh), block dẫn truyền và các rối loạn nhịp khác hoặc suy tim đột ngột không giải thích được. Sốt, mệt mỏi, gầy sút, đổ mồ hôi về đêm, chán ăn đều có thể gặp.
Chẩn đoán khối u tim
Siêu âm tim
MRI tim
Chụp cắt lớp tim
Chụp PET
Sinh thiết
Chẩn đoán được kiểm chứng qua siêu âm tim, dù thường bị trì hoãn do triệu chứng giống với các bệnh lý khác phổi biến hơn siêu âm tim.
Siêu âm qua thực quản giúp quan sát tốt hơn các khối u trong tâm nhĩ còn siêu âm qua thành ngực đánh giá các khối u tâm thất tốt hơn.
Do độ phân giải thời gian vượt trội, siêu âm tim là phương thức chẩn đoán hình ảnh được lựa chọn trong việc hình dung các khối u tim rất di động, đặc biệt khi các khối u này nhỏ.
Các phương thức chẩn đoán hình ảnh khác cũng được sử dụng để mô tả thêm đặc điểm của khối u.
Chụp MRI tim là phương thức chẩn đoán hình ảnh được lựa chọn để xác định đặc điểm mô khối u và cung cấp manh mối tốt nhất cho các loại khối u.
Chụp CT tim có tăng cường thuốc tương phản với khả năng thu nhận 3D và độ phân giải không gian vượt trội có thể cung cấp thông tin giải phẫu chi tiết hơn so với các kỹ thuật khác.
Chụp cắt lớp phát xạ Positron (PET) có thể cung cấp bằng chứng đầu tiên cho thấy di căn tim ở những bệnh nhân có khối u ác tính ngoài tim.
Tuy nhiên, PET có thể không có khả năng phân biệt giữa sự hấp thu sinh lý và bệnh lý trong các mô tim và không thể cung cấp đặc điểm mô của khối u cũng như phim MRI hoặc phim CT.
Sinh thiết thường không được thực hiện vì các nghiên cứu hình ảnh thường có thể phân biệt lành tính với khối u ác tính và sinh thiết có thể vô tình làm lây lan các tế bào ung thư ở những bệnh nhân có khối u nguyên phát ác tính.
Ở những bệnh nhân được lựa chọn cẩn thận, sinh thiết qua ống thông qua da có dẫn hướng siêu âm tim có thể được thực hiện mà không cần phẫu thuật tim hở và cung cấp thông tin ảnh hưởng đến việc xử trí.
Các bệnh nhân bị u nhầy thường được xét nghiệm rất nhiều trước khi làm siêu âm tim do triệu chứng không điển hình.
Thiếu máu, giảm tiểu cầu, tăng bạch cầu, tốc độ máu lắng, CRP và gamma globulin.
Trên điện tim có thể có hình ảnh giãn nhĩ trái. Phim chụp X quang ngực thường quy có thể cho thấy lắng đọng canxi trong u nhày nhĩ phải hoặc u quái được coi là khối trung thất trước. U nhầy đôi khi được chẩn đoán khi tìm thấy tế bào u ở một khối huyết tắc.
Bệnh nhân rối loạn nhịp, suy tim cùng với các biểu hiện của xơ cứng củ gợi ý u cơ tim hoặc u xơ.
Các triệu chứng tim mạch mới ở bệnh nhân có ung thư ngoài tim gợi ý có di căn tới tim.
Phim X quang ngực có thể cho thấy những thay đổi kỳ lạ ở bóng tim.
Điều trị khối u tim
Nguyên phát lành tính: Cắt bỏ
U nguyên phát ác tính: Điều trị giảm nhẹ
U di căn: Phụ thuộc vào nguồn gốc khối u
Điều trị có thể bao gồm cắt bỏ, giảm nhẹ và/hoặc các biện pháp khác.
Điều trị khối u nguyên phát lành tính gồm có phẫu thuật cắt bỏ và theo dõi định kỳ bằng siêu âm tim trong 5 đến 6 năm để phát hiện tái phát.
Các khối u được cắt bỏ trừ khi có chống chỉ định khác với phẫu thuật (ví dụ, chứng mất trí).
Phẫu thuật thường chữa khỏi bệnh (ví dụ: trong một loạt, tỷ lệ sống thêm ở thời điểm 1 năm là 96%, ở thời điểm 5 năm là 83% và ở thời điểm 10 năm 75%.
Các trường hợp ngoại lệ bao gồm u cơ tim (thường tự thoái triển và không cần điều trị), u quái màng ngoài tim (có thể cần chọc dịch màng ngoài tim cấp).
Bệnh nhân bị u sợi đàn hồi có thể cần phải thay hoặc sửa van tim.
Khi u cơ vân hoặc u xơ có nhiều ổ, phẫu thuật cắt bỏ thường không hiệu quả và tiên lượng xấu sau năm đầu tiên; thời gian sống thêm sống ở thời điểm 5 năm có thể rất thấp.
Hóa trị và/hoặc xạ trị hiếm khi được chỉ định cho các khối u tim nguyên phát lành tính.
Ở những bệnh nhân được lựa chọn cẩn thận,ghép tim có thể được xem xét nếu khối u được coi là không thể cắt bỏ được.
Các báo cáo cũng nhấn mạnh tính khả thi của ghép tự thân (một thủ thuật liên quan đến việc cấy tim sang, cắt bỏ khối u, tái tạo tim và ghép lại tim được tái tạo) ở những bệnh nhân được lựa chọn cẩn thận có khối u phức tạp (tức là không dễ dàng cắt bỏ tại chỗ) và ở các trung tâm có kinh nghiệm.
Điều trị các khối u nguyên phát ác tính đa phần là điều trị giảm nhẹ (ví dụ xạ trị, hóa trị, kiểm soát biến chứng) do tiên lượng xấu.
Điều trị các khối u di căn về tim phụ thuộc vào nguồn gốc khối u.
Có thể gồm hóa trị hoặc điều trị giảm nhẹ.
Những điểm chính
Hầu hết các khối u tim đều di căn, thường gặp nhất là từ ung thư biểu mô phổi và vú, u ác tính, sarcoma mô mềm và ung thư biểu mô thận.
Các khối u tim nguyên phát ít phổ biến hơn nhiều; hầu hết đều bắt nguồn từ cơ tim hoặc nội tâm mạc, nhưng các u này có thể phát triển ở bất kỳ mô tim nào và lành tính hoặc ác tính.
Biểu hiện phụ thuộc vào vị trí và loại u, bao gồm các triệu chứng toàn thân, tắc nghẽn van tim hoặc đường ra/vào của tâm thất, huyết khối tắc mạch, rối loạn nhịp.
Chẩn đoán bằng siêu âm tim và thường là các chẩn đoán hình ảnh tim khác (ví dụ: chụp MRI, chụp CT, chụp PET).
Điều trị các khối u lành tính là cắt bỏ. U tim nguyên phát ác tính và đa phần u di căn chỉ có thể điều trị giảm nhẹ.

TIP
Các khối u ở tim hiếm gặp và có thể là nguyên phát (xuất phát từ tim) hoặc di căn (từ nơi khác đến). Chúng được phân thành ba nhóm bệnh lý trên lâm sàng:
Khối u bẩm sinh lành tính, khối u mắc phải lành tính và khối u ác tính.
Gần 90% khối u ở tim nguyên phát là lành tính.
Các khối u tim ác tính (ung thư tim) rất hiếm và chiếm 10% trong tất cả các khối u tim nguyên phát.
Tìm hiểu chung ung thư tim
Ung thư tim xảy ra khi các tế bào ở tim tăng sinh quá mức ngoài tầm kiểm soát.
Những tế bào này tạo thành một khối u.
Ung thư bắt đầu tại tim là ung thư tim nguyên phát, dạng ung thư này cực kỳ hiếm gặp.
Một dạng ung thư tim thường xảy ra hơn đó là ung thư ở một cơ quan khác di căn đến tim (ung thư tim thứ phát). Ví dụ, ung thư phổi có thể di căn đến tim.
Triệu chứng ung thư tim
Suy tim đột ngột không rõ nguyên nhân là dấu hiệu hàng đầu của bệnh ung thư tim.
Người bệnh có thể cảm thấy khó thở và mệt nhiều nếu khối u chèn ép vào buồng tim hoặc xâm lấn trong tim gây ảnh hưởng đến chức năng của van tim.
Các triệu chứng khác của ung thư tim bao gồm:
Rối loạn nhịp (nhịp tim bất thường) hoặc nhịp tim nhanh;
Đau ngực;
Ngất xỉu.
Đa số ung thư tim được phát hiện tình cờ khi xét nghiệm hình ảnh học như siêu âm tim, chụp cắt lớp vi tính hoặc chụp cộng hưởng từ vì một lý do nào đó khác.
Ung thư tim nguyên phát có thể di căn đến các bộ phận khác của cơ thể.
Bệnh thường di căn đến hệ thần kinh trung ương, chẳng hạn như cột sống hoặc não.
Nó cũng có thể di căn đến phổi.
Các triệu chứng của bệnh ung thư tim di căn có thể gặp, bao gồm:
Đau lưng mạn tính;
Lú lẫn hoặc rối loạn trí nhớ;
Ho ra máu...
Biến chứng có thể gặp khi mắc bệnh ung thư tim
Các biến chứng do ung thư tim gây ra thường mang tính chất cơ học.
Thuyên tắc mạch: 
Thuyên tắc mạch gây đột quỵ tim là một biến chứng thường gặp, có thể phát hiện trên điện tâm đồ và siêu âm tim.
Bệnh van tim: 
Chẳng hạn như hẹp hoặc suy van tim thường gặp khi khối u ở gần các lá van.
Ngất có thể xảy ra khi có ùn ứ lưu lượng máu do khối u làm giảm tưới máu não và động mạch vành, hoặc cũng có thể dẫn đến nhịp tim nhanh.
Rối loạn nhịp: 
Nếu các khối u nằm bên cạnh hệ thống dẫn truyền nhịp và cơ tim có thể tạo ra các bất thường về điện như block nhĩ thất, block tim hoàn toàn và nhịp nhanh thất.
Tràn dịch màng ngoài tim: 
Tổn thương màng ngoài tim và tràn dịch màng ngoài tim có thể gây ra rối loạn huyết động với tình trạng tụt huyết áp, khó thở và thậm chí chèn ép tim cấp.
Khi có bất kỳ triệu chứng nào nêu trên, nên nhanh chóng đến cơ sở y tế để được xác định nguyên nhân.
Nhiều triệu chứng ung thư tim không đặc hiệu, có nghĩa là các bệnh khác cũng có thể xuất hiện các triệu chứng tương tự.
Bất kể nguyên nhân gây ra các triệu chứng đó là gì, chẩn đoán sớm có thể làm tăng khả năng điều trị bệnh hiệu quả.
Nguyên nhân ung thư tim
Các nguyên nhân có thể gây ra ung thư tim phụ thuộc vào việc chúng là khối u nguyên phát hay thứ phát.
Các nhà nghiên cứu vẫn chưa chắc chắn về nguyên nhân chính xác của ung thư tim nguyên phát.
Một số khối u tim xảy ra có khuynh hướng di truyền, điều này có thể có ý nghĩa đối với tư vấn di truyền và ý nghĩa điều trị bằng các liệu pháp nhắm trúng đích.
Nguy cơ ung thư tim
Các yếu tố nguy cơ đối với khối u tim nguyên phát bao gồm:
Bệnh xơ cứng củ;
Hội chứng Gorlin;
Bệnh Carney complex;
Tiền sử gia đình có khối u ở tim;
Đột biến ở một số gen, chẳng hạn như: MDM2, PDGFRA, CDKN2A.
Yếu tố làm tăng nguy cơ mắc phải ung thư tim
Một số yếu tố nguy cơ khác làm gia tăng khả năng mắc ung thư tim, bao gồm:
Tuổi: Những người từ 50 tuổi trở lên có nhiều khả năng mắc bệnh ung thư tim hơn.
Giới tính: Phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh ung thư tim cao hơn so với nam giới.
Chủng tộc: Người da trắng có nguy cơ mắc bệnh ung thư tim cao hơn những người thuộc các nhóm chủng tộc và sắc tộc khác.
Ung thư tim thứ phát bắt nguồn từ ung thư ở một bộ phận cơ thể khác di căn đến tim.
Các loại ung thư thường có khả năng di căn đến tim bao gồm ung thư của:
Phổi;
Vú;
Thực quản;
Dạ dày;
Thận;
Da;
Ung thư hạch;
Ung thư máu hoặc tủy xương.
Các loại ung thư có thể di căn đến tim theo nhiều cách. Có thể là khối u ở vị trí gần tim và xâm lấn tim, hoặc các ung thư ở vị trí xa khác di căn bằng cách gieo rắc các tế bào ác tính theo đường bạch huyết hoặc máu đến tim.
Phương pháp chẩn đoán & điều trị ung thư tim
Có nhiều kỹ thuật hình ảnh để xác định đặc điểm và nguồn gốc của khối u, chủ yếu như:
Điện tâm đồ
Điện tâm đồ là một kỹ thuật quan trọng có thể giúp chẩn đoán ung thư tim.
Độ nhạy và độ đặc hiệu cao lên tới 90%.
Nó có thể được thực hiện dễ dàng ngay tại giường bệnh, và nếu cần hiểu rõ thêm chi tiết, việc sử dụng siêu âm tim qua thực quản có thể giúp xác định thêm các đặc điểm và vị trí của khối u ở tim.
Siêu âm tim
Phương thức này có thể xác định kích thước, độ di động và sự xâm lấn của khối u và mối quan hệ với các cấu trúc lân cận để xác định các nguy cơ có thể dẫn đến thuyên tắc mạch hoặc suy van tim.
Việc sử dụng siêu âm tim qua thực quản cũng có thể cho thấy hình ảnh của các khối u nhỏ mà khi siêu âm tim qua thành ngực không rõ ràng.
Siêu âm tim cản quang cũng hữu ích để phân biệt giữa khối u tim và huyết khối tim.
Siêu âm tim ba chiều là một tính năng bổ sung để xác định kích thước, hình dạng và cấu trúc của khối u.
MRI tim
MRI tim là một phương thức hình ảnh tuyệt vời để xác định kích thước khối u, vị trí, các cấu trúc lân cận để xác định phương pháp phẫu thuật cắt bỏ.
Chụp cắt lớp vi tính
Phương pháp hình ảnh học này rất hữu ích cho việc đánh giá khối cơ tim, cấu trúc lân cận và có thể xác định bản chất của khối u bằng cách đánh giá sự suy giảm của tia X.
Chụp mạch vành
Chụp mạch vành có thể xác định tim có được cung cấp máu đủ hay không và khảo sát các cấu trúc liền kề với khối u.
Kỹ thuật này cũng có thể giúp xác định sự xâm lấn của khối u đến mạch vành và buồng thất.
Sinh thiết và đánh giá mô bệnh học
Sinh thiết tim là một thủ thuật có tính rủi ro cao và chỉ nên được thực hiện tại các trung tâm lớn có bác sĩ có kinh nghiệm.
 Các khối u bên tim phải có nhiều khả năng được sinh thiết để xác định mô bệnh học của khối u.
Sinh thiết khối u bên tim trái có thể có nhiều rủi ro xảy ra trong quá trình thực hiện.
Sinh thiết dưới hướng dẫn của hình ảnh học làm tăng tỷ lệ thành công của sinh thiết và cũng cung cấp một mẫu mô tốt để xác định nguồn gốc mô bệnh học.
Xét nghiệm tế bào học
Xét nghiệm tế bào học từ dịch màng ngoài tim cũng có thể được sử dụng để xác định bản chất cơ bản của khối u.
Phẫu thuật cắt bỏ khối u với đánh giá mô học và soi huỳnh quang
Phương pháp này được sử dụng để xác định loại khối u tốt nhất.

Phương pháp điều trị ung thư tim hiệu quả
Điều trị ung thư tim phụ thuộc vào khối u nguyên phát hay thứ phát.
Ung thư tim nguyên phát (sarcoma tim): 
Phần lớn các sarcoma tim có tiên lượng xấu, một số nghiên cứu đã chứng minh sự gia tăng tỷ lệ sống sót sau khi phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn sarcoma so với những người bệnh không được điều trị bằng phẫu thuật.
Ung thư tim thứ phát: 
Điều trị bệnh ác tính căn nguyên sẽ giúp loại bỏ sự xâm lấn tim, nhưng đa số khi ung thư xâm lấn hoặc di căn đến tim là một yếu tố tiên lượng xấu.
Xử trí tràn dịch màng ngoài tim thông qua rút dịch màng ngoài tim, và nếu tái lập dịch xảy ra nhanh, bác sĩ có thể thực hiện dẫn lưu dịch màng ngoài tim.
Chế độ sinh hoạt & phòng ngừa ung thư tim
Chế độ sinh hoạt:
Thường xuyên luyện tập thể dục ít nhất ba mươi phút mỗi ngày.
Duy trì cân nặng khỏe mạnh.
Có chế độ ăn uống lành mạnh và điều độ.
Giữ mức đường huyết ở mức an toàn.
Quản lý mỡ máu.
Không hút thuốc lá.
Chế độ dinh dưỡng: 
Hiện nay, chưa có chế độ dinh dưỡng đặc biệt nào được khuyến nghị cho người bệnh ung thư tim.
Những người bệnh ung thư thường được khuyến khích duy trì một chế độ ăn uống lành mạnh và cân bằng, bao gồm nhiều rau xanh, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt, thịt gà, cá, trứng, đậu và các nguồn thực phẩm giàu protein khác. 
Người bệnh nên tránh các thực phẩm giàu đường và chất béo, thức ăn chế biến sẵn, các sản phẩm từ động vật chứa nhiều cholesterol và các loại đồ uống có cồn.
Tham khảo ý kiến ​​chuyên gia dinh dưỡng hoặc bác sĩ để có lời khuyên cụ thể và phù hợp nhất cho từng trường hợp.
Phương pháp phòng ngừa ung thư tim hiệu quả
Ung thư tim nguyên phát rất khó ngăn ngừa do yếu tố di truyền.
Một số người có nhiều khả năng mắc bệnh ung thư tim nguyên phát sau khi tiếp xúc với bức xạ.
Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có thể tránh tiếp xúc với bức xạ.
Ngăn ngừa ung thư tim thứ phát có thể dễ dàng hơn một chút, vì nhiều yếu tố nguy cơ ung thư khác có thể kiểm soát được.
Một nghiên cứu năm 2018 gợi ý rằng các cá nhân có thể giảm nguy cơ ung thư bằng cách thực hiện các lối sống lành mạnh, bao gồm:
Ngừng hút thuốc lá hoặc tránh hút thuốc lá thụ động (hít phải khói thuốc lá).
Duy trì cân nặng lý tưởng.
Tập thể dục thường xuyên.
Hạn chế uống rượu.
Lưu ý là những biện pháp phòng ngừa này không thể loại bỏ hoàn toàn khả năng mắc bệnh ung thư tim thứ phát.
 

Danh mục: Bệnh ung thư Từ khóa: