Curcumin -Tinh chất nghệ
Nhanh lên! Chỉ còn 49 mặt hàng trong kho
00 days
21 hrs
40 mins
58 secs
Curcumin -Tinh chất nghệ
CURCUMIN (TINH CHẤT NGHỆ):
Đây là một hoạt chất chống viêm và có thể hỗ trợ giảm nguy cơ ung thư bằng cách ức chế sự phát triển của tế bào ung thư.
Củ nghệ (Tên tiếng anh: Turmeric, tên khoa học: Curcuma longa)
Là một loại thảo mộc thuộc họ gừng, được trồng rộng rãi ở khu vực nhiệt đới phía Nam và Tây Nam châu Á.
Củ nghệ đã được sử dụng từ nhiều thế kỷ trước ở Ấn Độ và Trung Quốc, ngoài làm gia vị, nghệ còn dùng để điều trị các bệnh lý như bệnh da liễu, nhiễm trùng, căng thẳng và trầm cảm.
Năm 1815, Vogel & Pelletier đã phân lập được hoạt chất của nghệ và đặt tên là Curcumin, chiếm 2-5% trong nghệ.
Curcumin với kí hiệu là hiệu C.I. 75300 làm nên màu vàng đặc trưng của nghệ.
Năm 1910, Milobedzka và cộng sự mới xác định được curcumin là polyphenol kỵ nước có cấu trúc diferuloylmethane.
Curcumin là một hỗn hợp gồm 77% diferuloylmethane, 18% demethoxycurcumin và 5% bisdemethoxycurcumin.
Ngoài ra còn có các loại tinh dầu quan trọng khác như turmerone, atlantone, và zingiberene.
Curcumin khó hòa tan trong nước tại pH axit và trung tính; tuy nhiên dễ hòa tan trong acetone, methanol, ethanol; dễ bị phân hủy trong đường tiêu hóa.
Tiềm năng của Curcimin chống ung thư
1. Con đường cơ chế ức chế các dòng tế bào ung thư
Một nghiên cứu năm 2009 ở trường đại học Texas, Hoa Kỳ cho thấy rằng Curcumin giúp điều chỉnh sự tăng trưởng và lan rộng của các tế bào ung thư ở mức độ phân tử.
Curcumin có những đặc tính chống oxy hóa có thể giúp giảm các phản ứng viêm trong cơ thể.
Viêm là một trong những nguyên nhân gây hình thành ung thư.
Vẫn chưa có đầy đủ các bằng chứng để nói rằng curcumin có thể phòng hay điều trị ung thư.
Một nghiên cứu vào năm 2009 đã chỉ ra rằng curcumin có thể tiêu diệt được rất nhiều loại tế bào ung thư theo nhiều cơ chế.
Vì có thể tác dụng theo nhiều cách khác nhau nên các tế bào ung thư thường ít có khả năng đề kháng với curcumin.
Curcumin chỉ có tác động lên tế bào ung thư mà không ảnh hưởng gì đến các tế bào bình thường khỏe mạnh.
Đây là một đặc điểm vô cùng quan trọng bởi các liệu pháp điều trị chuẩn hiện nay như hóa trị đều tiêu diệt cả tế bào lành lẫn tế bào ung thư.
Một nghiên cứu vào năm 2008 đưa ra kết luận rằng curcumin có thể giúp chống lại các tế bào ung thư tụy nhưng cần phải dùng với liều cao.
Để có thể giảm thiểu độc tính khi phải dùng liều cao, người ta đã tổng hợp nên dạng curcumin có đặc tính sinh học cao có tên là Theracurmin.
Con đường cơ chế ức chế các dòng tế bào ung thư
Cụ thể hoạt động thông qua việc điều chỉnh các con đường truyền tín hiệu của tế bào bao gồm cả con đường sinh sản tế bào mới (cyclin D1, c-myc).
Con đường chống lại quá trình chết tế bào (Bcl-2, Bcl-x).
Con đường kích hoạt men caspase (caspase-8, 3, 9).
Con đường ức chế khối u (p53, p21).
Con đường thụ thể chết tế bào (DR4, DR5).
Con đường protein kinase (JNK, Akt và AMPK).
2. Tế bào ung thư dạ dày
Một nghiên cứu thí nghiệm 2017 về tác dụng của Curcumin trong việc ức chế tế bào ung thư dạ dày bằng cách ức chế bài tiết axit qua trung gian gastrin (hormone peptide kích thích tiết acid dạ dày) .
Kết quả ghi nhận Curcumin ức chế đáng kể sự tăng sinh các tế bào ung thư dạ dày, kích hoạt con đường chết tế bào, ức chế tiết gastrin và acid dạ dày.
Viện ung thư quốc gia Hoa Kỳ đang thực hiện nghiên cứu vai trò Curcumin trong phòng ngừa ung thư dạ dày trên bệnh nhân viêm teo dạ dày mạn tính hoặc dị sản biểu mô dạ dày ruột giai đoạn II/V (so sánh các thay đổi trong mô học ở biểu mô dạ dày (Histology Gastric Score) so với giả dược, theo dõi trong 6 tháng.
Hiện nay Curcumin vẫn chưa được thử nghiệm lâm sàng trên người trong điều trị ung thư dạ dày.
3. Tế bào ung thư tụy
Một thử nghiệm lâm sàng quy mô nhỏ đánh giá hiệu quả của Curcumin trên 25 bệnh nhân ung thư tụy tiến triển.
Bệnh nhân nhận được 8g curcumin bằng đường uống hàng ngày trong 8 tuần, tối đa 18 tháng, nghỉ mỗi 2 tháng.
Đo nồng độ các hóa chất trung gian gây viêm như interleukin (IL) -6, IL-8, IL-10, chất đối kháng thụ thể IL-1, sự biểu hiện trong tế bào đơn nhân máu ngoại vi của NF-κB và cyclooxygenase-2 (COX-2). 2/25 bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng.
Một bệnh nhân ghi nhận sự ổn định nồng độ các chất chỉ dấu gây viêm liên tục trong vòng >18 tháng, chủ yếu là NF-kB và COX-2.
Một bệnh nhân được cho thấy có sự giảm khối u (73% so với ban đầu), kèm theo sự gia tăng đáng kể các cytokine huyết thanh như (IL-6, IL-8, IL-10 và thụ thể đối kháng IL-1) từ 4-35 lần.
4. Tế bào ung thư vú
Một số nghiên cứu đã mô tả tác dụng chống ung thư vú của curcumin trên các dòng tế bào ung thư vú của người loại phụ thuộc, không phụ thuộc hormon và trên tế bào đa kháng thuốc.
Curcumin giúp điều chỉnh các gen ung thư vú thông qua tác động lên chu kỳ tế bào và sự tăng sinh tế bào, chết tế bào theo chu trình, lão hóa tế bào, quá trình xâm lấn và tăng sinh mạch máu.
Hoạt động chủ yếu của Curcumin đáp ứng thông qua các con đường tín hiệu qua các thụ thể như NFkB, PI3K / Akt / mTOR, MAPK và JAK / STAT.
Các quan sát hiệu quả của Curcumin thông qua đáp ứng miễn dịch trung gian tế bào ung thư vú trong môi trường phòng thí nghiệm.
Nếu sử dụng curcumin như một tác nhân điều trị và phòng ngừa ung thư vú thì cần phải cân nhắc thêm vì hoạt tính sinh học đa dạng, phức tạp của Curcumin trên từng con đường tín hiệu chưa thể giải thích được.
Hiện tại vẫn chưa có nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng trên người bị ung thư vú.
5. Tế bào ung thư gan
Nhiều nghiên cứu trên tế bào ung thư gan người đã phát hiện thấy curcumin làm gián đoạn chu kỳ tế bào, có tác dụng độc tế bào (cytotoxic), chống sự tăng sinh và gây chết tế bào theo chương trình (apoptosis).
Một nghiên cứu nhỏ trên 12 bệnh nhân có ung thư đại trực tràng di căn vào gan cho uống Curcumin 450-3600mg/ngày trong 1 tuần trước khi phẫu thuật, thấy nồng độ Curcumin trong mô gan chưa đủ gây ra tác dụng dược lý, có thể là curcunin đã bị chuyển hóa mạnh ở nên không tới được gan.
6. Tế bào ung thư biểu mô đại trực tràng
Năm 2001, một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I (mức độ động lực học và dược lực học) được thực hiện bởi Sharma và cộng sự, trên 15 bệnh nhân ung thư đại trực tràng tiến triển.
Bệnh nhân được phân tầng nhận được uống Curcuma – viên thuốc đường uống cho bệnh nhân với hàm lượng 36-180mg Curcumin/viên.
Liều dùng cho bệnh nhân là 1 viên/ngày, liều từ 440 đến 2200mg/ngày (36 -180 mg Curcumin/viên), trong vòng 4 tháng.
Kết quả phân tích ghi nhận 1/15 bệnh nhân ung thư biểu mô đại trực tràng tại chỗ giảm nồng độ chất chỉ dấu ung thư.
Kết quả cho thấy rằng chiết xuất Curcuma có thể được sử dụng an toàn cho bệnh nhân với liều tới 2,2 g mỗi ngày, tương đương 180 mg Curcumin;
Curcumin có sinh khả dụng đường uống thấp ở người vì trải qua quá trình chuyển hóa ở ruột.
Nhưng đây chỉ là thực nghiệm trên nhóm nhỏ, cần thêm những thử nghiệm lâm sàng với cỡ mẫu lớn hơn trên một quần thể dân số, đánh giá mức độ đáp ứng cũng như các tác dụng phụ nếu có.
7. Liều lượng dùng Curcumin an toàn.
FDA công nhận nghệ an toàn khi sử dụng.
Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thuộc Liên Hợp Quốc (FAO/WHO), 1996 đề nghị mức tiêu thụ hằng ngày chấp nhận được là 0,1-3 mg/kg.
Có sự khác biệt về hàm lượng sử dụng nghệ trong chế độ ăn uống ở mỗi quốc gia.
Theo một nghiên cứu từ Nepal, việc tiêu thụ bột nghệ lên tới 1,5 g/người/ngày, tương đương với 50 mg/ngày, tuy nhiên chưa có ghi nhận xuất hiện các tác dụng phụ ở người.
Ở Ấn Độ, lượng nghệ trung bình một người ăn vào có thể lên tới 2,0-2,5g mỗi ngày (tương ứng với 60-100 mg Curcumin mỗi ngày), không ghi nhận độc tính hoặc tác dụng phụ.
Trong một nghiên cứu được thực hiện ở Ấn Độ, cho bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp uống 1,2-2,1 g chất Curcumin hàng ngày trong 26 tuần chưa ghi nhận bất kỳ độc tính.
Thực tế vẫn có các tác dụng phụ khi sử dụng nghệ:
a. Vấn đề về túi mật
Củ nghệ tương đối an toàn khi sử dụng như thực phẩm trong khi mang thai hoặc cho con bú.
Nghệ lại không an toàn khi sử dụng như thuốc trong thai kỳ.
Vì có thể cung cấp kinh nguyệt hoặc kích thích co tử cung, gây nguy hiểm cho thai kỳ.
Không sử dụng thuốc nghệ nếu đang mang thai.
Củ nghệ có thể làm cho vấn đề về túi mật trở nên nặng nề hơn.
Không sử dụng bột nghệ nếu bạn bị sỏi mật hoặc tắc nghẽn ống mật.
b. Rối loạn đông cầm máu
Nghệ có thể làm chậm quá trình đông máu.
Có thể làm tăng nguy cơ dễ bị bầm tím và chảy máu ở những người bị rối loạn đông cầm máu.
c. Bệnh tiểu đường
Curcumin có thể làm giảm lượng đường trong máu ở những người mắc bệnh tiểu đường.
Sử dụng thận trọng ở những người mắc bệnh tiểu đường vì nó có thể làm cho hạ đường huyết.
d. Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD):
Củ nghệ có thể gây khó chịu ở dạ dày ở một số người.
Có thể làm cho các vấn đề về dạ dày như GERD trở nên trầm trọng hơn.
Không dùng nghệ nếu làm nặng thêm các triệu chứng của GERD.
e. Nhạy cảm với nội tiết tố như ung thư vú, ung thư tử cung, ung thư buồng trứng, lạc nội mạc tử cung hoặc u xơ tử cung
Củ nghệ có chứa Curcumin, có thể hoạt động giống như hormone estrogen.
Về lý thuyết, nghệ có thể làm cho tình trạng nhạy cảm với hormone trở nên nặng hơn.
Một số nghiên cứu cho thấy củ nghệ làm giảm tác dụng của estrogen trong một số tế bào ung thư nhạy cảm với hormone.
Nghệ có thể có tác dụng có lợi đối với các tình trạng nhạy cảm với hormone.
Cẩn trọng sử dụng nghệ nếu đang gặp tình trạng nặng hơn khi tiếp xúc với hormone.
LỢI ÍCH LÂM SÀNG CỦA CURCUMIN
Nhiều nghiên cứu lâm sàng đã đề cập đến tính an toàn và tác dụng có lợi của curcumin ở bệnh nhân ung thư.
Trong thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II, 25 bệnh nhân mắc PC tiến triển đã được dùng 8 g curcumin mỗi ngày cho đến khi bệnh tiến triển, với giai đoạn tái phát sau mỗi hai tháng.
Kết quả cho thấy curcumin được dung nạp tốt và thể hiện hoạt tính sinh học ở những bệnh nhân này.
Cụ thể, curcumin làm giảm biểu hiện của NF-ĸB, COX-2 và STAT3 phosphoryl hóa trong các tế bào đơn nhân máu ngoại vi từ bệnh nhân.
Một khối u thoái triển đáng kể đã được quan sát thấy ở một bệnh nhân.
Nhìn chung, curcumin có thể là một tác nhân hóa trị liệu tiềm năng chống lại PC.
Hoạt động chống ung thư của curcumin đã được nghiên cứu trước đây ở những bệnh nhân mắc ung thư vú tiến triển và di căn.
Docetaxel (100 mg/m 2 ) và curcumin (6 g/ngày) đã được dùng trong 7 ngày.
Sự suy giảm nồng độ kháng nguyên phôi thai (CEA) và VEGF đã được quan sát thấy ở 8 bệnh nhân sau khi điều trị bằng docetaxel/curcumin.
Do đó, curcumin có thể được sử dụng như một chất bổ trợ cho docetaxel để điều trị ung thư vú.
Tiềm năng điều trị của curcumin đã được kiểm tra ở bệnh nhân CRC.
Tổng cộng 126 bệnh nhân CRC được điều trị bằng 1.080 mg curcumin mỗi ngày hoặc chất mang trong 10-30 ngày.
Điều trị bằng curcumin làm tăng biểu hiện của p53 cũng như tỷ lệ Bax/Bcl-2 trong mô khối u và do đó đẩy nhanh quá trình apoptosis tế bào khối u ở bệnh nhân CRC.
Cả bệnh lý gammopathy đơn dòng có ý nghĩa chưa xác định (MGUS) và bệnh đa u tủy âm ỉ (SMM) đều là các rối loạn tế bào plasma không triệu chứng và là tình trạng tiền thân tiến triển thành bệnh đa u tủy.
Trong một nghiên cứu chéo ngẫu nhiên, mù đôi có đối chứng giả dược, 19 bệnh nhân MGUS và 17 bệnh nhân SMM được dùng 4 g curcumin hoặc giả dược mỗi ngày, chuyển tiếp sau 3 tháng.
Việc sử dụng curcumin dẫn đến giảm nồng độ deoxypyridinoline trong nước tiểu (uDPYD), một dấu hiệu của sự tiêu xương.
Hơn nữa, nồng độ creatinine trong huyết thanh cũng giảm ở những bệnh nhân được điều trị bằng curcumin.
=>Những kết quả này chứng minh rằng curcumin có thể có khả năng làm chậm sự tiến triển của bệnh ở những bệnh nhân mắc MGUS và SMM.
Mahammedi và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu giai đoạn II để đánh giá hiệu quả của docetaxel/prednisone kết hợp với curcumin (6 g/ngày) ở 26 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt kháng thiến.
Nồng độ kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) trong huyết thanh giảm đáng kể ở 59% bệnh nhân được điều trị kết hợp.
Trong khi đó, phản ứng khách quan với khối u được quan sát thấy ở 40% bệnh nhân.
Những phát hiện này cho thấy tính khả thi về mặt lâm sàng của docetaxel/prednisone kết hợp với curcumin trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt kháng thiến.
Trong một nghiên cứu gần đây, 44 bệnh nhân mắc PC tiến triển đã được dùng gemcitabine (100 mg/m 2) và 2 g/ngày Meriva® (chứa ~667 mg phức hợp phytosome của curcumin).
Tỷ lệ sống sót chung của những bệnh nhân được dùng gemcitabine/Meriva® (10,2 tháng) cao hơn so với những bệnh nhân chỉ được điều trị bằng gemcitabine (5,7 tháng).
Việc bổ sung phức hợp phytosome của curcumin có thể tăng cường hiệu quả chống ung thư của gemcitabine.
Từ kết quả của các thử nghiệm lâm sàng này, curcumin cho thấy tiềm năng điều trị chống lại các loại ung thư khác nhau ở người.
Tuy nhiên, cần có nhiều nghiên cứu được thiết kế tốt hơn trên các nhóm lớn hơn để xác nhận tính an toàn và hiệu quả của curcumin ở bệnh nhân ung thư.
Kết luận:
– Curcumin được ghi nhận an toàn khi sử dụng, thậm chí 12-20g/ngày, hiện chưa có báo cáo về các trường hợp ngộ độc hoặc tác dụng phụ đáng kể xảy ra
Dùng nghệ tươi hoặc bột nghệ thông thường chi phí thấp, bảo toàn hàm lượng nồng độ hoạt chất, không gây tác dụng bất lợi cho sức khỏe.
Mặc dù tác dụng hóa trị ung thư của curcumin đã được xác minh ở nhiều loại tế bào ung thư, nhưng hiệu quả của nó rất hạn chế trong cả nghiên cứu tiền lâm sàng và lâm sàng.
Điều này có thể là do độ hòa tan trong nước thấp, chuyển hóa nhanh và hấp thụ không hiệu quả.
Do tính hòa tan kém, dễ bị phân hủy ở đường tiêu hóa, hoạt tính sinh học nên cần nghiên cứu.
Điều bắt buộc là phải cải thiện khả dụng sinh học và tích lũy nội bào của curcumin trong cơ thể sống .
Một số phương pháp có thể được áp dụng để khắc phục những hạn chế này.
Việc sử dụng tá dược như piperine, các chất tương tự về cấu trúc và sự phát triển của các chất vận chuyển (ví dụ, liposome và hạt nano) có thể cải thiện khả dụng sinh học và hiệu quả của curcumin.
Các chiến lược nhằm cải thiện hiệu quả của curcumin có thể làm tăng độc tính của nó.
Cần có thêm các nghiên cứu lâm sàng để đánh giá tính an toàn và hiệu quả chống ung thư của các dạng curcumin có khả dụng sinh học cao này ở người.
Đây là một hoạt chất chống viêm và có thể hỗ trợ giảm nguy cơ ung thư bằng cách ức chế sự phát triển của tế bào ung thư.
Củ nghệ (Tên tiếng anh: Turmeric, tên khoa học: Curcuma longa)
Là một loại thảo mộc thuộc họ gừng, được trồng rộng rãi ở khu vực nhiệt đới phía Nam và Tây Nam châu Á.
Củ nghệ đã được sử dụng từ nhiều thế kỷ trước ở Ấn Độ và Trung Quốc, ngoài làm gia vị, nghệ còn dùng để điều trị các bệnh lý như bệnh da liễu, nhiễm trùng, căng thẳng và trầm cảm.
Năm 1815, Vogel & Pelletier đã phân lập được hoạt chất của nghệ và đặt tên là Curcumin, chiếm 2-5% trong nghệ.
Curcumin với kí hiệu là hiệu C.I. 75300 làm nên màu vàng đặc trưng của nghệ.
Năm 1910, Milobedzka và cộng sự mới xác định được curcumin là polyphenol kỵ nước có cấu trúc diferuloylmethane.
Curcumin là một hỗn hợp gồm 77% diferuloylmethane, 18% demethoxycurcumin và 5% bisdemethoxycurcumin.
Ngoài ra còn có các loại tinh dầu quan trọng khác như turmerone, atlantone, và zingiberene.
Curcumin khó hòa tan trong nước tại pH axit và trung tính; tuy nhiên dễ hòa tan trong acetone, methanol, ethanol; dễ bị phân hủy trong đường tiêu hóa.
Tiềm năng của Curcimin chống ung thư
1. Con đường cơ chế ức chế các dòng tế bào ung thư
Một nghiên cứu năm 2009 ở trường đại học Texas, Hoa Kỳ cho thấy rằng Curcumin giúp điều chỉnh sự tăng trưởng và lan rộng của các tế bào ung thư ở mức độ phân tử.
Curcumin có những đặc tính chống oxy hóa có thể giúp giảm các phản ứng viêm trong cơ thể.
Viêm là một trong những nguyên nhân gây hình thành ung thư.
Vẫn chưa có đầy đủ các bằng chứng để nói rằng curcumin có thể phòng hay điều trị ung thư.
Một nghiên cứu vào năm 2009 đã chỉ ra rằng curcumin có thể tiêu diệt được rất nhiều loại tế bào ung thư theo nhiều cơ chế.
Vì có thể tác dụng theo nhiều cách khác nhau nên các tế bào ung thư thường ít có khả năng đề kháng với curcumin.
Curcumin chỉ có tác động lên tế bào ung thư mà không ảnh hưởng gì đến các tế bào bình thường khỏe mạnh.
Đây là một đặc điểm vô cùng quan trọng bởi các liệu pháp điều trị chuẩn hiện nay như hóa trị đều tiêu diệt cả tế bào lành lẫn tế bào ung thư.
Một nghiên cứu vào năm 2008 đưa ra kết luận rằng curcumin có thể giúp chống lại các tế bào ung thư tụy nhưng cần phải dùng với liều cao.
Để có thể giảm thiểu độc tính khi phải dùng liều cao, người ta đã tổng hợp nên dạng curcumin có đặc tính sinh học cao có tên là Theracurmin.
Con đường cơ chế ức chế các dòng tế bào ung thư
Cụ thể hoạt động thông qua việc điều chỉnh các con đường truyền tín hiệu của tế bào bao gồm cả con đường sinh sản tế bào mới (cyclin D1, c-myc).
Con đường chống lại quá trình chết tế bào (Bcl-2, Bcl-x).
Con đường kích hoạt men caspase (caspase-8, 3, 9).
Con đường ức chế khối u (p53, p21).
Con đường thụ thể chết tế bào (DR4, DR5).
Con đường protein kinase (JNK, Akt và AMPK).
2. Tế bào ung thư dạ dày
Một nghiên cứu thí nghiệm 2017 về tác dụng của Curcumin trong việc ức chế tế bào ung thư dạ dày bằng cách ức chế bài tiết axit qua trung gian gastrin (hormone peptide kích thích tiết acid dạ dày) .
Kết quả ghi nhận Curcumin ức chế đáng kể sự tăng sinh các tế bào ung thư dạ dày, kích hoạt con đường chết tế bào, ức chế tiết gastrin và acid dạ dày.
Viện ung thư quốc gia Hoa Kỳ đang thực hiện nghiên cứu vai trò Curcumin trong phòng ngừa ung thư dạ dày trên bệnh nhân viêm teo dạ dày mạn tính hoặc dị sản biểu mô dạ dày ruột giai đoạn II/V (so sánh các thay đổi trong mô học ở biểu mô dạ dày (Histology Gastric Score) so với giả dược, theo dõi trong 6 tháng.
Hiện nay Curcumin vẫn chưa được thử nghiệm lâm sàng trên người trong điều trị ung thư dạ dày.
3. Tế bào ung thư tụy
Một thử nghiệm lâm sàng quy mô nhỏ đánh giá hiệu quả của Curcumin trên 25 bệnh nhân ung thư tụy tiến triển.
Bệnh nhân nhận được 8g curcumin bằng đường uống hàng ngày trong 8 tuần, tối đa 18 tháng, nghỉ mỗi 2 tháng.
Đo nồng độ các hóa chất trung gian gây viêm như interleukin (IL) -6, IL-8, IL-10, chất đối kháng thụ thể IL-1, sự biểu hiện trong tế bào đơn nhân máu ngoại vi của NF-κB và cyclooxygenase-2 (COX-2). 2/25 bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng.
Một bệnh nhân ghi nhận sự ổn định nồng độ các chất chỉ dấu gây viêm liên tục trong vòng >18 tháng, chủ yếu là NF-kB và COX-2.
Một bệnh nhân được cho thấy có sự giảm khối u (73% so với ban đầu), kèm theo sự gia tăng đáng kể các cytokine huyết thanh như (IL-6, IL-8, IL-10 và thụ thể đối kháng IL-1) từ 4-35 lần.
4. Tế bào ung thư vú
Một số nghiên cứu đã mô tả tác dụng chống ung thư vú của curcumin trên các dòng tế bào ung thư vú của người loại phụ thuộc, không phụ thuộc hormon và trên tế bào đa kháng thuốc.
Curcumin giúp điều chỉnh các gen ung thư vú thông qua tác động lên chu kỳ tế bào và sự tăng sinh tế bào, chết tế bào theo chu trình, lão hóa tế bào, quá trình xâm lấn và tăng sinh mạch máu.
Hoạt động chủ yếu của Curcumin đáp ứng thông qua các con đường tín hiệu qua các thụ thể như NFkB, PI3K / Akt / mTOR, MAPK và JAK / STAT.
Các quan sát hiệu quả của Curcumin thông qua đáp ứng miễn dịch trung gian tế bào ung thư vú trong môi trường phòng thí nghiệm.
Nếu sử dụng curcumin như một tác nhân điều trị và phòng ngừa ung thư vú thì cần phải cân nhắc thêm vì hoạt tính sinh học đa dạng, phức tạp của Curcumin trên từng con đường tín hiệu chưa thể giải thích được.
Hiện tại vẫn chưa có nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng trên người bị ung thư vú.
5. Tế bào ung thư gan
Nhiều nghiên cứu trên tế bào ung thư gan người đã phát hiện thấy curcumin làm gián đoạn chu kỳ tế bào, có tác dụng độc tế bào (cytotoxic), chống sự tăng sinh và gây chết tế bào theo chương trình (apoptosis).
Một nghiên cứu nhỏ trên 12 bệnh nhân có ung thư đại trực tràng di căn vào gan cho uống Curcumin 450-3600mg/ngày trong 1 tuần trước khi phẫu thuật, thấy nồng độ Curcumin trong mô gan chưa đủ gây ra tác dụng dược lý, có thể là curcunin đã bị chuyển hóa mạnh ở nên không tới được gan.
6. Tế bào ung thư biểu mô đại trực tràng
Năm 2001, một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I (mức độ động lực học và dược lực học) được thực hiện bởi Sharma và cộng sự, trên 15 bệnh nhân ung thư đại trực tràng tiến triển.
Bệnh nhân được phân tầng nhận được uống Curcuma – viên thuốc đường uống cho bệnh nhân với hàm lượng 36-180mg Curcumin/viên.
Liều dùng cho bệnh nhân là 1 viên/ngày, liều từ 440 đến 2200mg/ngày (36 -180 mg Curcumin/viên), trong vòng 4 tháng.
Kết quả phân tích ghi nhận 1/15 bệnh nhân ung thư biểu mô đại trực tràng tại chỗ giảm nồng độ chất chỉ dấu ung thư.
Kết quả cho thấy rằng chiết xuất Curcuma có thể được sử dụng an toàn cho bệnh nhân với liều tới 2,2 g mỗi ngày, tương đương 180 mg Curcumin;
Curcumin có sinh khả dụng đường uống thấp ở người vì trải qua quá trình chuyển hóa ở ruột.
Nhưng đây chỉ là thực nghiệm trên nhóm nhỏ, cần thêm những thử nghiệm lâm sàng với cỡ mẫu lớn hơn trên một quần thể dân số, đánh giá mức độ đáp ứng cũng như các tác dụng phụ nếu có.
7. Liều lượng dùng Curcumin an toàn.
FDA công nhận nghệ an toàn khi sử dụng.
Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thuộc Liên Hợp Quốc (FAO/WHO), 1996 đề nghị mức tiêu thụ hằng ngày chấp nhận được là 0,1-3 mg/kg.
Có sự khác biệt về hàm lượng sử dụng nghệ trong chế độ ăn uống ở mỗi quốc gia.
Theo một nghiên cứu từ Nepal, việc tiêu thụ bột nghệ lên tới 1,5 g/người/ngày, tương đương với 50 mg/ngày, tuy nhiên chưa có ghi nhận xuất hiện các tác dụng phụ ở người.
Ở Ấn Độ, lượng nghệ trung bình một người ăn vào có thể lên tới 2,0-2,5g mỗi ngày (tương ứng với 60-100 mg Curcumin mỗi ngày), không ghi nhận độc tính hoặc tác dụng phụ.
Trong một nghiên cứu được thực hiện ở Ấn Độ, cho bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp uống 1,2-2,1 g chất Curcumin hàng ngày trong 26 tuần chưa ghi nhận bất kỳ độc tính.
Thực tế vẫn có các tác dụng phụ khi sử dụng nghệ:
a. Vấn đề về túi mật
Củ nghệ tương đối an toàn khi sử dụng như thực phẩm trong khi mang thai hoặc cho con bú.
Nghệ lại không an toàn khi sử dụng như thuốc trong thai kỳ.
Vì có thể cung cấp kinh nguyệt hoặc kích thích co tử cung, gây nguy hiểm cho thai kỳ.
Không sử dụng thuốc nghệ nếu đang mang thai.
Củ nghệ có thể làm cho vấn đề về túi mật trở nên nặng nề hơn.
Không sử dụng bột nghệ nếu bạn bị sỏi mật hoặc tắc nghẽn ống mật.
b. Rối loạn đông cầm máu
Nghệ có thể làm chậm quá trình đông máu.
Có thể làm tăng nguy cơ dễ bị bầm tím và chảy máu ở những người bị rối loạn đông cầm máu.
c. Bệnh tiểu đường
Curcumin có thể làm giảm lượng đường trong máu ở những người mắc bệnh tiểu đường.
Sử dụng thận trọng ở những người mắc bệnh tiểu đường vì nó có thể làm cho hạ đường huyết.
d. Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD):
Củ nghệ có thể gây khó chịu ở dạ dày ở một số người.
Có thể làm cho các vấn đề về dạ dày như GERD trở nên trầm trọng hơn.
Không dùng nghệ nếu làm nặng thêm các triệu chứng của GERD.
e. Nhạy cảm với nội tiết tố như ung thư vú, ung thư tử cung, ung thư buồng trứng, lạc nội mạc tử cung hoặc u xơ tử cung
Củ nghệ có chứa Curcumin, có thể hoạt động giống như hormone estrogen.
Về lý thuyết, nghệ có thể làm cho tình trạng nhạy cảm với hormone trở nên nặng hơn.
Một số nghiên cứu cho thấy củ nghệ làm giảm tác dụng của estrogen trong một số tế bào ung thư nhạy cảm với hormone.
Nghệ có thể có tác dụng có lợi đối với các tình trạng nhạy cảm với hormone.
Cẩn trọng sử dụng nghệ nếu đang gặp tình trạng nặng hơn khi tiếp xúc với hormone.
LỢI ÍCH LÂM SÀNG CỦA CURCUMIN
Nhiều nghiên cứu lâm sàng đã đề cập đến tính an toàn và tác dụng có lợi của curcumin ở bệnh nhân ung thư.
Trong thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II, 25 bệnh nhân mắc PC tiến triển đã được dùng 8 g curcumin mỗi ngày cho đến khi bệnh tiến triển, với giai đoạn tái phát sau mỗi hai tháng.
Kết quả cho thấy curcumin được dung nạp tốt và thể hiện hoạt tính sinh học ở những bệnh nhân này.
Cụ thể, curcumin làm giảm biểu hiện của NF-ĸB, COX-2 và STAT3 phosphoryl hóa trong các tế bào đơn nhân máu ngoại vi từ bệnh nhân.
Một khối u thoái triển đáng kể đã được quan sát thấy ở một bệnh nhân.
Nhìn chung, curcumin có thể là một tác nhân hóa trị liệu tiềm năng chống lại PC.
Hoạt động chống ung thư của curcumin đã được nghiên cứu trước đây ở những bệnh nhân mắc ung thư vú tiến triển và di căn.
Docetaxel (100 mg/m 2 ) và curcumin (6 g/ngày) đã được dùng trong 7 ngày.
Sự suy giảm nồng độ kháng nguyên phôi thai (CEA) và VEGF đã được quan sát thấy ở 8 bệnh nhân sau khi điều trị bằng docetaxel/curcumin.
Do đó, curcumin có thể được sử dụng như một chất bổ trợ cho docetaxel để điều trị ung thư vú.
Tiềm năng điều trị của curcumin đã được kiểm tra ở bệnh nhân CRC.
Tổng cộng 126 bệnh nhân CRC được điều trị bằng 1.080 mg curcumin mỗi ngày hoặc chất mang trong 10-30 ngày.
Điều trị bằng curcumin làm tăng biểu hiện của p53 cũng như tỷ lệ Bax/Bcl-2 trong mô khối u và do đó đẩy nhanh quá trình apoptosis tế bào khối u ở bệnh nhân CRC.
Cả bệnh lý gammopathy đơn dòng có ý nghĩa chưa xác định (MGUS) và bệnh đa u tủy âm ỉ (SMM) đều là các rối loạn tế bào plasma không triệu chứng và là tình trạng tiền thân tiến triển thành bệnh đa u tủy.
Trong một nghiên cứu chéo ngẫu nhiên, mù đôi có đối chứng giả dược, 19 bệnh nhân MGUS và 17 bệnh nhân SMM được dùng 4 g curcumin hoặc giả dược mỗi ngày, chuyển tiếp sau 3 tháng.
Việc sử dụng curcumin dẫn đến giảm nồng độ deoxypyridinoline trong nước tiểu (uDPYD), một dấu hiệu của sự tiêu xương.
Hơn nữa, nồng độ creatinine trong huyết thanh cũng giảm ở những bệnh nhân được điều trị bằng curcumin.
=>Những kết quả này chứng minh rằng curcumin có thể có khả năng làm chậm sự tiến triển của bệnh ở những bệnh nhân mắc MGUS và SMM.
Mahammedi và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu giai đoạn II để đánh giá hiệu quả của docetaxel/prednisone kết hợp với curcumin (6 g/ngày) ở 26 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt kháng thiến.
Nồng độ kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) trong huyết thanh giảm đáng kể ở 59% bệnh nhân được điều trị kết hợp.
Trong khi đó, phản ứng khách quan với khối u được quan sát thấy ở 40% bệnh nhân.
Những phát hiện này cho thấy tính khả thi về mặt lâm sàng của docetaxel/prednisone kết hợp với curcumin trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt kháng thiến.
Trong một nghiên cứu gần đây, 44 bệnh nhân mắc PC tiến triển đã được dùng gemcitabine (100 mg/m 2) và 2 g/ngày Meriva® (chứa ~667 mg phức hợp phytosome của curcumin).
Tỷ lệ sống sót chung của những bệnh nhân được dùng gemcitabine/Meriva® (10,2 tháng) cao hơn so với những bệnh nhân chỉ được điều trị bằng gemcitabine (5,7 tháng).
Việc bổ sung phức hợp phytosome của curcumin có thể tăng cường hiệu quả chống ung thư của gemcitabine.
Từ kết quả của các thử nghiệm lâm sàng này, curcumin cho thấy tiềm năng điều trị chống lại các loại ung thư khác nhau ở người.
Tuy nhiên, cần có nhiều nghiên cứu được thiết kế tốt hơn trên các nhóm lớn hơn để xác nhận tính an toàn và hiệu quả của curcumin ở bệnh nhân ung thư.
Kết luận:
– Curcumin được ghi nhận an toàn khi sử dụng, thậm chí 12-20g/ngày, hiện chưa có báo cáo về các trường hợp ngộ độc hoặc tác dụng phụ đáng kể xảy ra
Dùng nghệ tươi hoặc bột nghệ thông thường chi phí thấp, bảo toàn hàm lượng nồng độ hoạt chất, không gây tác dụng bất lợi cho sức khỏe.
Mặc dù tác dụng hóa trị ung thư của curcumin đã được xác minh ở nhiều loại tế bào ung thư, nhưng hiệu quả của nó rất hạn chế trong cả nghiên cứu tiền lâm sàng và lâm sàng.
Điều này có thể là do độ hòa tan trong nước thấp, chuyển hóa nhanh và hấp thụ không hiệu quả.
Do tính hòa tan kém, dễ bị phân hủy ở đường tiêu hóa, hoạt tính sinh học nên cần nghiên cứu.
Điều bắt buộc là phải cải thiện khả dụng sinh học và tích lũy nội bào của curcumin trong cơ thể sống .
Một số phương pháp có thể được áp dụng để khắc phục những hạn chế này.
Việc sử dụng tá dược như piperine, các chất tương tự về cấu trúc và sự phát triển của các chất vận chuyển (ví dụ, liposome và hạt nano) có thể cải thiện khả dụng sinh học và hiệu quả của curcumin.
Các chiến lược nhằm cải thiện hiệu quả của curcumin có thể làm tăng độc tính của nó.
Cần có thêm các nghiên cứu lâm sàng để đánh giá tính an toàn và hiệu quả chống ung thư của các dạng curcumin có khả dụng sinh học cao này ở người.
Chỉ những khách hàng đã đăng nhập và mua sản phẩm này mới có thể đưa ra đánh giá.
Danh mục:
Dinh dưỡng
Từ khóa:
Curcumin -Tinh chất nghệ
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.